Thứ Tư, 30 tháng 6, 2021

LIỆU PHÁP GESTALT - Phần 1

BS. NGUYỄN MINH TIẾN dịch và tổng hợp
Nguồn: ESSENTIAL PSYCHOTHERAPY - 1995



Frederick Salomon Perls (1893-1970)


Khi Đảng Quốc xã lên cầm quyền ở Đức vào năm 1933, một cặp vợ chồng người Đức (cả hai đều là những nhà phân tâm) đã rời quê nhà sang Hà Lan, rồi sau đó đi cư sang Nam Phi để thành lập ở đó một Viện nghiên cứu về Phân tâm học. Và đến năm 1942, họ cho xuất bản một quyển sách mà sau đó được biết với tên gọi là Liệu pháp Gestalt.

Frederick Salomon (Fritz) Perls xuất thân là một nhà phân tâm, và đã chịu ảnh hưởng của nhiều nhà phân tâm danh tiếng cùng thời, trong đó có Theodore Ferenczi, Karen Horney, Otto Rank, Wilheim Reich và Harry Stack Sullivan. Trong buổi đầu hành nghề tại Đức, Perls đã rất say mê với những tư tưởng tiến bộ như trào lưu Bauhaus trong nghệ thuật và kiến trúc, triết lý hiện sinh, sân khấu và vũ thuật. Perls cũng chịu ảnh hưởng bởi Tâm lý học Gestalt – một trường phái tâm lý học tại Đức vào khoảng đầu thế kỷ 20, do May Wertheimer, Wolfgang Kohler và Kurt Koffka sáng lập. Những tác giả này chủ trương đi ngược lại vói xu hướng chung của tâm lý học vào thời đó là tìm hiểu các trải nghiệm của con người bằng cách chia cắt chúng thành ra những thành phần riêng lẻ. Tâm lý học Gestalt chủ trương rằng những thành phần cấu thành các trải nghiệm của con người không thể được khảo sát một cách riêng lẻ, mà phải được xem xét đưới dạng những “tổng thể”. Họ sử dụng chữ gestalt, một từ trong tiếng Đức, với ý nghĩa là “một tổng thể hợp nhất với các tính chất không đơn thuần được tạo nên bởi tổng số các thành phần và các tương tác giữa các thành phần ấy”. Perls cũng chịu ảnh hưởng bởi Học thuyết về Sinh thể (organismic theory) của Kurt Golstein và lý thuyết về Trường (field theory) của Kurt Levin.

Mặc dù Fritz Perls được xem như người sáng lập trường phái trị liệu Gestalt, nhưng vợ ông, Laura Perls, cũng là người đồng sáng lập và cùng ông viết tác phẩm Ego, Hunger and Aggression (Cái Tôi, Sự Khao khát và Hung tính). Lý thuyết Trường-Tiến trình (field-process) của Tâm lý học Gestalt và Chủ nghĩa nhân văn – hiện sinh của Buber và Tillich là trọng tâm trong lý thuyết của trường phái trị liệu Gestalt và điều này là do công đóng góp và ảnh hưởng của Laura Perls.

Khi nhận thấy Nam Phi bắt đầu chuyển sang chế độ độc tài và phân biệt chủng tộc, hai vợ chồng rời nước này sang Hoa Kỳ vào năm 1946, thành lập tại New York một nhóm nghiên cứu về tâm lý trị liệu dựa trên những nền tảng học thuyết mới của Perls và chịu ảnh hưởng bởi các phương pháp phân tích của Wilheim Reich, Harry Stack Sullivan và Karen Horney.

Những nhà sáng lập trường phái trị liệu Gestalt cùng với các đồ đệ của Sullivan, Horney và Reich đã chống lại khuynh hướng phân tâm học cổ điển của Freud. Vào thời đó, những nhà phân tâm được xem như những “tấm bình phong trống trơn” (blank screen); họ không thể hiện bất cứ điều gì mang tính cá nhân của mình để cho những bệnh nhân có thể thực hiện việc phóng chiếu (projection) và tạo lập tình trạng “nhiễu tâm chuyển di” (transference neurosis). Cách làm này rất khác xa với những nhà phân tâm theo các xu hướng mới tiến bộ hơn ngày nay như xu hướng “quan hệ đối tượng” hoặc “tâm lý học bản ngã” (self psychology).

Những nhà trị liệu Gestalt xem những nhà trị liệu phân tâm chiếm giữ quá nhiều quyền lực so với bệnh nhân và đã không dành sự lưu tâm đầy đủ đến những gì thực sự đang diễn ra trong mối quan hệ giữa nhà trị liệu và thân chủ. Họ tin rằng trị liệu phân tâm không đủ hiệu quả trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng nơi thân chủ. Họ chủ trương thiết lập một hệ thống trị liệu hướng đến phát huy sự tăng trưởng thay vì chỉ chú ý đến việc làm giảm thiểu trạng thái tâm bệnh, họ dựa vào những trải nghiệm thật sự nhiều hơn là chỉ dựa vào sự diễn giải những thực tại không thể trải nghiệm được; và họ dựa trên những mối quan hệ tiếp xúc chắc chắn chứ không phải chỉ tái diễn lại những trải nghiệm thông qua tình trạng “nhiễu tâm chuyển di”. Phương pháp được áp dụng ở đây gọi là “nhận biết (ngộ) thông qua tiếp xúc đối thoại” (awareness through dialogic contact).

Lý thuyết của Liệu pháp Gestalt, giống như trong Lý thuyết về Trường, chủ trương xem xét Trường (field) trong một tổng thể và nhấn mạnh đến “tiến trình” (tức là quá trình phát triển hoặc các hành động diễn tiến theo thời gian) hơn là chỉ quan tâm đến những trạng thái tĩnh tại.

Giống như một liệu pháp có khuynh hướng “hiện sinh” (experiential), liệu pháp Gestalt nhấn mạnh đến sự hiện hữu đúng như những gì con người có thể trải nghiệm được và không đặt nặng vào những cách thức lý giải trừu tượng. Nhà trị liệu Gestalt tin vào khả năng của con người trong việc tăng trưởng, tự điều chỉnh và tự bình phục thông qua việc tiếp xúc giữa người với người và khả năng nội thị (insight). Mặc dù có những giới hạn về mặt sinh học - di truyền, bản ngã của con người vẫn được xem như một tiến trình có thể phát triển thông qua các tương tác xã hội chứ không phải do sự xung đột giữa những tác động dồn nén về mặt xã hội và những bản năng sinh học. Mối quan hệ trị liệu trong liệu pháp Gestalt là một sự tiếp xúc hay gắn kết rất chủ động và thực thụ giữa con người của nhà trị liệu và con người của thân chủ dựa trên khuôn mẫu đối thoại có tính hiện sinh, chứ không nhằm giữ một khoảng cách xa “trung tính” để thúc đẩy sự hình thành một nhiễu tâm chuyển di như trong liệu pháp phân tâm.

Và giống như một liệu pháp dựa trên cơ sở hiện tượng học (phenomenological therapy), liệu pháp Gestalt thay thế phương pháp liên tưởng tự do trong phân tâm học bằng phương pháp luận về một sự “tỉnh ngộ có trọng điểm” (focused awareness). Cách tiếp cận trên cơ sở hiện tượng học xem tất cả những gì có được từ sự trải nghiệm tức thời là những dữ liệu có tính chắc chắn, chứ không phải những dữ liệu rút ra từ quá khứ hoặc suy diễn theo lý thuyết. Phương pháp hiện tượng học cố gắng “làm sạch” sự nhận biết của cả nhà trị liệu lẫn thân chủ, theo cách thức giống như lau sạch bụi mờ trên một tấm gương. Việc hướng dẫn con người sử dụng các cảm nhận của chính mình để đạt đến khả năng nội thị khiến cho quan điểm hiện sinh về tiềm năng và trách nhiệm cá nhân trở thành hiện thực.

Vói cách thức đó, con người có thể có được những công cụ để hiểu biết về chính họ cũng như về người khác. Họ học được cách nhận diện và chấp nhận những nhu cầu, sở thích, ham muốn, động cơ và các giá trị của chính mình. Ngoài ra, bằng cách học được cách nhận biết các tiến trình nhận biết của chính mình, các thân chủ cũng sẽ học được cách điều hòa chính bản thân mình theo cách thức ít bóp méo ý thức của họ hơn.

Liệu pháp Gestalt là một phương pháp dựa trên hiện tượng học thực nghiệm. Thân chủ được hướng dẫn và khuyến khích thực hiện những hành vi mới với mục đích đạt đến sự hiểu biết bản thân tốt hơn. Bằng cách đề xuất những hành vi mới như những thực nghiệm hiện tượng học, nhà trị liệu có thể hướng dẫn thân chủ thay đổi hành vi thông qua sự nhận biết bản thân một cách tự nhiên chứ không thông qua những chương trình chỉnh sửa hành vi như trong liệu pháp hành vi.

LÝ THUYẾT VỀ NHÂN CÁCH

Trường Sinh thể - Môi trường (organism-environment field)

Trường phái Gestalt xem xét con người và môi trường sống trong một tổng thể không tách biệt, dựa trên sự tương tác giữa con người và môi trường sống (organism-environment field). Một con người không thể được xem xét tách rời khỏi Trường mà người này sinh sống, đặc biệt là không thể xem xét người ấy tách rời khỏi các tương tác giữa người với người trong Trưòng ấy; và ngược lại cũng không thể xem xét môi trường sống mà không thông qua nhãn quan của một con người. Thậm chí nhu cầu cần được cô độc của một con người cũng có thể được định nghĩa trong mối quan hệ với những người khác.

Trường được giới hạn bởi những đường biên giới. Đường biên giới tiếp xúc (contact boundary) có một chức năng kép: vừa giúp một con người có thể kết nối được với người khác, vừa giữ được sự tách biệt, độc lập của người ấy. Sự tách biệt tạo nên và bảo tồn tính độc lập của một con người, đồng thời bảo vệ người ấy tránh xa các tác nhân gây hại. Nhưng chỉ khi đường biên giới ấy cho phép sự trao đổi tích cực xảy ra bên trong Trường thì mới có thể làm nên đời sống và sự tăng trưởng. Con người tăng trưởng khi họ tiếp xúc với những gì ban đầu là xa lạ, đặc biệt khi họ tiếp xúc và nhận biết về những người khác xung quanh. Các nhu cầu được giải quyết thông qua sự tiếp xúc.

Con người hình thành nên sự cảm nhận về cái “Tôi” của mình bằng những quá trình tiếp xúc theo kiểu “tôi-với-anh” (I-though) hoặc “tôi-và-nó” (I-it), chứ một người không thể nhận biết cái “Tôi” của mình bằng cách xem xét một cái “Tôi” biệt lập. Bằng cách phân biệt giữa “ngã” (self) và “phi ngã” (not-self), thông qua sự vận hành các tiến trình “làm cho giống” (identification) và “làm cho khác” (alienation), con người luôn luôn định hướng cho khoảng không gian sống của mình và kiến tạo nên “một cảm nhận về con-người-mà-mình-đang-là” (a sense of who they are).

“Tất cả những sự tiếp xúc đều là sự điều chỉnh đầy tính sáng tạo của sinh thể và môi trường sống” (F. Perls, 1952) (All contact is creative adjustment of the organism and environment). Tất cả các sinh thể đều sống trong môi trường của mình và đều phải điều chỉnh tùy theo hoàn cảnh của Trường. Nhưng chỉ điều chỉnh thôi thì chưa đủ. Con người cũng cần phải “định dạng” lại môi trường sao cho nó có thể đáp ứng được các nhu cầu và giá trị của mình. Đây chính là khía cạnh “sáng tạo” đã được nêu ở trên.

Sự tiếp xúc có thể xảy ra mà con người có thể nhận biết được với nhiều mức độ khác nhau. Hầu hết các tương giao đều được thực hiện ở một mức độ rất quen thuộc khiến con người rất ít khi nhận biết được rằng tương giao ấy đang xảy ra. Chỉ khi tình huống sống có tính phức tạp, mới mẻ, khi có xung đột, hoặc khi các mô hình vận hành theo thói quen không có tác dụng thì mới cần đến việc người ấy phải nhận biết được hoạt động tiếp xúc của mình. Trong trường hợp người lành mạnh, khả năng nhận biết này có thể phát triển theo yêu cầu của tình huống sống.

“Sự tiếp xúc (contact) chỉ có thể xảy ra khi ít nhiều có được sự hỗ trợ (support) cho nó xảy ra... Sự hỗ trợ là bất cứ điều gì có tác dụng thúc đẩy sự đồng hóa (assimilation) và thống hợp (integration) các trải nghiệm trong một con người, trong một mối quan hệ hoặc trong một xã hội...” (Perls, 1992). Sự hỗ trợ có thể có được từ thể chất của chúng ta, từ ngôn ngữ, tập tục, khả năng học hỏi, trí tuệ, cũng như từ lòng trắc ẩn của chúng ta. Sự đồng nhất hóa của một con người với những trải nghiệm của chính mình có lẽ là khía cạnh quan trọng nhất của khả năng “tự hỗ trợ” (self-support) và là khía cạnh trung tâm trong học thuyết về sự thay đổi của liệu pháp Gestalt.

Một sự hỗ trợ đầy đủ là chức năng của toàn bộ Trường (field) và chức năng đó đòi hỏi phải có cả sự tự hỗ trợ của bản thân đương sự lẫn sự hỗ trợ từ môi trường. Khi một người cần có một môi trường an toàn để có thể nói ra được những cảm xúc đau khổ, người ấy ắt phải nhận ra được nhu cầu của mình, rồi sẽ tìm kiếm một hoàn cảnh có tính an toàn để nhu cầu ấy có thể được giải bày với người khác và cho phép những sự tương tác trở nên có hiệu quả.

Một sự tiếp xúc tốt phải là sự lưu tâm đến những hoàn cảnh thực tại đang xảy ra. Sự định hướng cũng như hành động xảy ra ngay trong những tình huống thực tế ở hiện tại và chỉ có thể có được sự hỗ trợ ở “tại đây và ngay lúc này” (here and now). Khi một người nói về một chuyện xảy ra trong quá khứ thì sự nhớ lại và những cảm xúc có được về chuyện ấy vẫn là những điều xảy ra trong hiện tại. Tương tự, khi nói về tương lai, những cảm xúc và dự đoán của chúng ta cũng diễn ra ngay trong hiện tại (Perls, 1992).

Khi một người liên hệ đến quá khứ (những niềm tin đã được nhập tâm từ xa xưa hoặc các sự việc chưa được hoàn tất) hoặc liên hệ đến tương lai (bi thảm hóa) mà không nhận ra mình đang như thế, khả năng nhận biết và chức năng sống của người ấy có thể bị phương hại. Ví dụ, khả năng tiếp xúc của một con người có thể bị phương hại khi anh ta nhầm lẫn một người nào đó trong hiện tại với hình ảnh của một người khác mà anh ta biết trong quá khứ. Một khả năng tự hỗ trợ đã từng thành công trong việc hỗ trợ cho sự tăng trưởng trước đây thì nay có thể trở nên có tác dụng hỗ trợ về mặt cấu trúc cho sự trì trệ.

Gestalt

Gestalt là một từ tiếng Đức có nghĩa là khuôn mẫu (pattern) hoặc hình thể, cấu trúc (configuration). Một gestalt được tạo nên bởi mối tương quan giữa Ảnh (figure) và Nền (ground). Mỗi Ảnh tượng trưng cho một trải nghiệm, nó được điều tiết tùy theo nhu cầu của đương sự đồng thời tùy theo nhu cầu và bản chất của tình huống mà người đó đang sống. Nền là toàn bộ bối cảnh bao gồm những yếu tố tương thích về mặt hiện tượng học mà từ đó xuất hiện nên Ảnh. Một cách lý tưởng thì Ảnh vẫn sẽ hiện rõ nét chừng nào mà sự quan tâm về nó vẫn còn trội bật, và chỉ mờ dần đi sau đó khi sự quan tâm chuyển sang một Ảnh khác kế tiếp.

“Sự ý thức một cách tự nhiên về nhu cầu nào đang nổi trội và tổ chức được các chức năng của sự tiếp xúc chính là hình thức thể hiện về mặt tâm lý của khả năng tự-điều-hòa-của-sinh-thể (organismic-self-regulation)” (Perls và cs., 1951). Việc tạo lập một gestalt là một tiến trình liên tục trong đó điều được quan tâm đến nhiều nhất sẽ được nhận biết để có thể xử lý công khai, năng lượng tâm trí được đầu tư để làm rõ Ảnh (figure) và thực hiện những hành động để làm thỏa mãn những nhu cầu được tượng trưng bởi hình ảnh đó. Khi sự đầu tư này thành công (thỏa mãn được nhu cầu của đương sự vào lúc ấy), sự chú ý của đương sự vào Ảnh sẽ giảm đi và năng lượng tâm trí được sử dụng để đầu tư cho một ảnh khác. Khi sự đầu tư không thành công, gestalt vẫn còn trong trạng thái không hoàn tất và vẫn đòi hỏi sự chú tâm của đương sự.

Ví dụ, một đứa trẻ tìm kiếm sự yêu thương nhưng không có được sự yêu thương thì sẽ trở nên hổ thẹn, oán hận hoặc cứ luôn khao khát chờ đợi. Gestalt chưa hoàn tất này có thể vẫn luôn vận hành ở nhiều tầng mức trong ý thức của đương sự. Khi không được bản thân nhận biết rõ, gestalt này vẫn trong trạng thái chưa hoàn tất và có thể ảnh hưởng đến lòng tự tôn, lên bản sắc cá nhân và lên các mối quan hệ liên cá nhân của đương sự trong nhiều năm. Nếu chức năng của đường biên giới là có tính uyển chuyển và không có sự nhiễu loạn, thì cá nhân đó vẫn có sự trao đổi và tăng trưởng. Nếu các đường biên giới quá cứng nhắc, một con người cũng sẽ trở nên cứng nhắc và kém linh hoạt, ví dụ như trường hợp những người có rối loạn nhân cách ám ảnh – cưỡng chế. Khi chức năng ở các đường biên giới có sự “dò rỉ”, đương sự sẽ mất đi sự rõ ràng về mặt bản sắc, rất hay giao động và cứ luôn phải điều chỉnh bản thân mình theo người khác.

Ý nghĩa của một gestalt nằm trong mối liên hệ giữa trải nghiệm (ảnh) và bối cảnh (nền). Ý nghĩa luôn luôn có liên quan đến bối cảnh, cả về mặt thòi gian, không gian, văn hóa va con người. Nếu không hiểu biết về bối cảnh (Nền) thì một trải nghiệm (Ảnh) sẽ không có ý nghĩa gì cả. Nếu không có sự trải nghiệm, cái bối cảnh kia cũng trở nên không được nhận biết rõ ràng và cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.

Trong thực hành trị liệu, sự nhận biết rõ một gestalt được gọi là khả năng “nội thị” (insight). “Nội thị là sự định khuôn cho trường nhận thức (perceptual field) theo một cách thức sao cho thực tại được hiển thị một cách rõ rệt; chính trong sự tạo lập một gestalt mà các yếu tố tương thích với cái toàn thể” (Heidbreder, 1993). Khái niệm nội thị trong liệu pháp gestalt chính là sự nhận biết rõ về cấu trúc của Trường Cá nhân – Môi trường bao gồm sự tiếp xúc với cái ngã trong toàn bộ Trường cuộc sống của một con người. Vào thời điểm một người cần đến khả năng nhận biết có tính nội thị (insightful awareness) mà khả năng ấy không phát triển được thì chính đó là lúc có chỉ định tiến hành tâm lý trị liệu.

Sự đồng hóa và tạo lập cái Ngã

(Assimilation and Self Formation)

Từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, thông qua sự điều chỉnh một cách sáng tạo, con người đã phát triển nên một cảm nhận về cái Ngã (sense of self) nơi bản thân mình. Ngay từ khi vừa mới chào đời, cấu trúc sinh học của sinh thể đã bắt đầu tương tác với những điều xa lạ từ môi trường xung quanh, và dần dần tạo lập nên bản ngã – một thực thể sinh học-xã hội-tâm lý-tinh thần. Con người thống hợp tất cả các trải nghiệm trong cuộc sống, liên tục tương tác với Trường Sinh thể - Môi trường trong hiện tại, liên tục điều chỉnh bản thân cho phù hợp với môi trường và điều chỉnh môi trường cho phù hợp với bản thân. Mỗi người vào một thời điểm khi tương tác với một sự vật trong môi trường cũng đều có được một cảm nhận về cái Ngã của mình. Sự tương tác với một cái mới sẽ tạo nên một cảm nhận mới về cái Ngã.

Quá trình “chuyển hóa về mặt tâm thần” (Mental metabolism) là một thuật ngữ có tính ẩn dụ được sử dụng trong liệu pháp Gestalt để mô tả các tiến trình hoạt động của những đường biên giới qua đó con người vừa duy trì được bản thân mình vừa có thể tăng trưởng. Con người trở nên nhận biết được các nhu cầu của mình, hướng về môi trường để hiểu biết chắc chắn những nguồn lực nào có thể giúp thỏa mãn những nhu cầu ấy, rồi chọn lựa để thu nhập vào và biến cái xa lạ kia trở thành một thành phần của cái Ngã. Đồng hóa (Assimilation) là tiến trình thống hợp những cái mới lạ từ bên ngoài và biến nó trở thành một phần trong cái Ngã của một con người. Tiêu hóa thức ăn cũng là một sự đồng hóa dưới hình thức sinh học. Những gì bên ngoài được xem là không cần thiết hoặc có thể gây nguy hại thì sẽ bị từ chối; chỉ những gì “có giá trị nuôi dưỡng” và được mong đợi mới có thể được dung nạp vào.

Cái được đồng hóa sẽ trở thành một phần của cái Ngã; cái được du nhập vào mà không thông qua tiến trình đồng hóa thì vẫn sẽ còn là một “dị vật” và quá trình này được gọi là nhập tâm, hoặc nội phóng chiếu (introjection). Việc tự động không chấp nhận quan điểm của người khác thường xảy ra thông qua đối thoại hoặc đồng hóa. Việc tự động chấp nhận quan điểm của người khác mà không thông qua sự phân tích thường chỉ là sự “nhập tâm” nêu trên. Các ý tưởng du nhập vào bên trong tâm trí mà không thông qua sự xem xét (học tập, phân tích, suy nghĩ...) được gọi là những “sự vật hoặc đối tượng được nhập nội” (introjects). Các lời răn “Nên” hoặc “Không Nên” là những giáo điều không thông qua sự đồng hóa, được tiếp nhận từ khi còn nhỏ, và ăn sâu vào phần bản ngã của một con người. Những introject ấy sẽ làm hạn chế khả năng của con người trong việc cảm nhận rõ rệt về cái Ngã, cản trở sự rộng mở để tiếp nhận những trải nghiệm mới, loại bỏ khả năng sống hòa hợp và sống động của một con người, làm cho người đó không sống hết khả năng của mình.

Những người có nhân cách lành mạnh có khả năng nhận biết rõ bản ngã, ít xảy ra những xung đột trong nội tâm, có khả năng tự thân cảm nhận những tính chất, cảm xúc và nhu cầu của bản thân. Cấu trúc nhân cách cùng với cảm nhận về bản ngã tất cả đều được tạo lập nên thông qua mối quan hệ tương tác giữa con người với môi trường sống. Trẻ em khi được đối xử với sự thương yêu và tôn trọng sẽ phát triển nên một cảm nhận về lòng tự tôn (sense of self-esteem). Trẻ em có thể trở nên những con người có khả năng và hữu ích nếu khi còn nhỏ trẻ được khuyến khích làm những hành vi thử nghiệm, ứng phó, được phép sai lầm, được tạo cơ hội để có những lúc phải thất vọng và hụt hẫng, được học cách tương tác với thế giới xung quanh và được hướng dẫn cách xử lý các tình huống bất trắc bằng những cách thức phù hợp với khả năng và mức độ phát triển của trẻ.

Trong quá trình sống, có nhiều lúc con người rơi vào thế bế tắc (impasse). Đó là những lúc không có được sự hỗ trợ từ bên ngoài, và đương sự không biết được liệu mình có thể tự lực để tồn tại được hay không nếu không có ai khác giúp đỡ. Lúc đó, đương sự có thể có một cảm nhận về tình huống vừa như một mối nguy, vừa như một cơ hội. Việc có ai đó đến cứu giúp sẽ khiến đương sự không nhận ra được là mình yếu kém về khả năng tự lực (tự hỗ trợ: self-support). Nếu không có sự cứu giúp từ người khác, tình thế bế tắc khi ấy có thể trở thành một cơ hội để đương sự thực hiện một điều mới mẻ và quan sát được điều gì sẽ xảy ra. Đây là một thực nghiệm và bằng cách thực nghiệm mà con người mới có thể học tập và tăng trưởng được.

BỆNH LÝ VÀ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG

Con người học tập được từ sự trải nghiệm. Rối loạn chức năng xảy ra khi khả năng nhận biết không phát triển theo yêu cầu và những kiểu mẫu hành vi thì lại hạn chế khả năng tăng trưởng, không cho phép cá nhân cảm thấy hài lòng, hoặc lập đi lập lại tình trạng gây hủy hoại về mặt xã hội. Cơ chế nhận biết nguyên thủy không phát triển sẽ gây gián đoạn cho việc tạo lập sự lưu tâm đến một Ảnh (figure) khiến cho nó không trở thành chủ đề được ý thức nhận biết. Tiến trình gián đoạn khả năng nhận biết tự nó cũng có thể được định vị trở thành một Ảnh và thông qua sự “nhận biết về khả năng nhận biết” mà tiến trình học tập có thể được bảo tồn. Khi tiến trình nhận biết không được bảo tồn, việc học tập sẽ không xảy ra và các hành vi lành mạnh không được hình thành; khi ấy việc trị liệu sẽ được chỉ định.

Các hành vi bị gián đoạn thường bắt đầu có từ tuổi thơ bé, khi mà đứa trẻ không được hỗ trợ đầy đủ hoặc khi mà đứa trẻ được bảo bọc quá mức, không có điều kiện để trải nghiệm và học tập được từ những hệ quả tự nhiên của những hành vi của chính mình.

Sự gián đoạn xảy ra cả trên bình diện tâm trí lẫn bình diện cơ thể. Ví dụ khi một người trở nên sợ hãi hoặc ngượng ngùng, người ấy sẽ tìm cách ngăn trở khả năng nhận biết những cảm xúc này bằng cách mỉa mai, châm biếm. Anh ta nghĩ rằng mình “đang đùa cợt”. Trên bình diện cơ thể, khả năng nhận biết cũng bị né tránh bằng cách làm gián đoạn những tiến trình hỗ trợ cho sự linh hoạt về mặt cảm xúc. Ví dụ, một người khi cố gắng ngăn trở sự nhận biết về cảm xúc buồn bã hoặc muốn kiềm giữ cho không khóc có thể sẽ cắn chặt hàm răng hoặc nhắm nghiền mắt lại. Cơ chế của những hành vi né tránh ấy lại có thể làm phát sinh thêm các khó khăn mới, ví dụ nó sẽ gây nên chứng đau đầu do căng thẳng (tension headaches).

Khi trong Trường hiện tại xảy ra sự gián đoạn khả năng nhận biết thì sự gián đoạn này thường có liên quan đến các “đối tượng được nội tâm hóa” (introjects), những ký ức và những “vụ việc chưa hoàn tất” (unfinished business) tức là những cảm xúc chưa được giải quyết hoặc những nhu cầu chưa được thỏa mãn. Điều này cũng giải thích được phần lớn những hiện tượng chuyển di (transference). Ví dụ một nữ thân chủ có thể nhận thấy nhà trị liệu của cô là một người nhiệt tình và rộng lượng, nhưng cô có thể không tin ông ta bởi vì trước đây người cha nghiện rượu của cô cũng thể hiện vẻ nhiệt tình và rộng lượng giống như vậy nhưng rồi có thể đột ngột công kích cô một cách vô cớ.

Rối loạn các đường biên giới

Khi chu trình tạo lập một Ảnh bị gián đoạn hoặc bị bóp méo, khi đó sẽ có sự rối loạn trong khả năng nhận biết và rối loạn tại đường biên giới tiếp xúc giữa người ấy với phần còn lại của Trường. Một số người có thể làm gián đoạn chu trình tạo lập một Ảnh bằng cách nhanh chóng chuyển sang chú tâm đến một Ảnh mới trước khi Ảnh cũ được đầu tư một cách đầy đủ. Ví dụ một cô gái nọ rất sôi nổi và thích gợi chuyện, gần như có mặt khắp nơi trong một gian phòng nhưng lại không ở lại với ai đủ lâu để có thể có được một cảm nhận đầy đủ về bản ngã của cô cũng như để có thể có được một sự kết nối với người khác. Cô gái ấy là ví dụ minh họa cho một trường hợp thay đổi quá nhanh trong sự đầu tư vào các Ảnh (figure). Trong một ví dụ khác, một thanh niên lại thể hiện tính chất đầu tư quá lâu vào một Ảnh: anh ta thường kéo dài giai đoạn làm rõ một Ảnh khiến cho Ảnh vẫn tiếp tục được làm rõ đến từng chi tiết mà chẳng bao giờ chuyển sang một hành động nào cả. Mọi người đều nhận thấy anh ta như một người có tính ám ảnh, quá nguyên tắc và dễ bị lạc lối trong các tiểu tiết.

Tiếp xúc, Hòa lẫn và Tách biệt (Contact, Confluence and Isolation)

Một sự tiếp xúc với Trường được xem là tốt nếu như các đường biên giới có đủ tính chất kép đã được bàn đến ở phần trên: vừa kết nối và vừa tách biệt. Khi một người bị mất đi cái cảm nhận về sự kết nối với thế giới xung quanh, người đó đang sống cô lập. Một người cô lập không có những tương tác tốt với xung quanh và cũng không tương tác tốt với chính họ. Trái lại, nếu mất đi cảm nhận về sự tách biệt thì người đó đang hòa lẫn mình với người khác, phụ thuộc vào người khác.

Nhập tâm và phóng chiếu (introjection and projection)

Mặc dù quá trình nhập tâm (introjecting) là có tính lành mạnh trong việc học tập những tình huống mới và nó rất cần thiết trong thời thơ ấu, nhưng những đối tượng được nhập tâm (introjects) nào còn nằm ngoài tầm nhận biết thì lại là thành phần cốt yếu của cơ chế hình thành bệnh lý. Ví dụ, nếu một đứa trẻ nhập tâm ý tưởng rằng ‘‘Nếu không thể nói được điều gì hay ho thì tốt nhất là nên im lặng’’ thì điều này sẽ có ảnh hưởng đến tính quyết đoán của trẻ sau này khi cuộc sống cần đến khả năng ấy.

Phóng chiếu hay ngoại hiện thì trái ngược với nhập nội. Trong khi nhập tâm là quy những gì của người khác vào trong cái ngã; thì phóng chiếu là tiến trình quy những gì của mình cho người khác. Phóng chiếu ngăn trở một con người trải nghiệm được những nét tính cách của cái ngã bằng cách quy nó cho người khác. Có nhiều người đôi lúc tự ngăn trở việc nhận biết những cảm xúc ganh ghét của bản thân mình bằng cách suy nghĩ (phóng chiếu) rằng những người khác đã thể hiện thái độ thù địch với mình. Sự phóng chiếu có thể thay đổi theo nhiều mức độ khác nhau về tính chính xác, tuy nhiên nó luôn có chức năng làm trở ngại cho sự nhận biết bản thân.

Hồi hướng và Chuyển hướng (Retroflection and Deflection)

Hiện tượng hồi hướng và chuyển hướng có thể xảy ra về sau trong chu trình nhận biết. Nếu trong quá trình nhập tâm và phóng chiếu, sự nhận biết bị gián đoạn trước khi đương sự trải nghiệm được những cảm xúc và các xung năng như là của chính mình, thì trong hồi hướng và chuyển hướng, đương sự vẫn chấp nhận các xung năng là của chính mình nhưng thay đổi chiều hướng hoặc mức độ tác động của nó. Việc này có thể cho phép đương sự chấp nhận những ước muốn của chính mình và có thể điều chỉnh lại những đáp ứng sao cho thỏa mãn những nhu cầu của hoàn cảnh sống.

Trong quá trình hồi hướng, các xung năng và ước muốn được chuyển từ bình diện liên cá nhân (interpersonal) sang bình diện nội tâm (intrapsychic); nghĩa là một điều mà đương sự muốn mình làm cho người khác hoặc muốn người khác làm cho mình sẽ được chuyển hướng thành điều mà đương sự tự làm cho chính mình. Ví dụ trường hợp một người đang giận dữ vẫn cố kiềm giữ tình huống ở mức an toàn để không có những hành động bột phát, hoặc trường hợp một người muốn có những cảm giác dễ chịu sẽ làm những động tác tự kích thích bản thân.

Chuyển hướng là quá trình làm giảm đi tác động của sự tương tác hoặc theo hướng từ người khác đến bản thân hoặc theo hướng từ bản thân đến người khác. Mỉm cười để giảm nhẹ một thái độ chỉ trích hoặc giận dữ là một ví dụ. Phớt lờ hoặc xem nhẹ một sự giao tiếp là cách chuyển hướng đối với một tình huống giao tiếp đang xuất hiện. Chuyển hướng có thể là một khả năng quan trọng giúp bảo vệ cho cái ngã cũng như cho tình huống sống. Những người không chuyển hướng cho những thái độ gây hấn ra bên ngoài (outgoing aggression) có thể làm cuộc sống của những người khác thêm khó khăn; trong khi những người không chuyển hướng cho những thái độ gây hấn hướng vào bên trong (incoming aggression) có thể trở thành những người dễ bị tự ái.

Tiếp cận trị liệu các chứng lo âu theo kiểu gestalt

Với cơ sở triết lý được định hướng theo các tiến trình của trường phái Gestalt, chứng lo âu được tiếp cận dựa trên tiến trình hơn là dựa trên bối cảnh của lo âu. Lo âu được xem là trải nghiệm về một sự phấn khích bị gián đoạn hoặc không được hỗ trợ (khi cuộc sống phải bị đè nén chứ không được nâng đỡ). Khi lo âu, một người sẽ mất đi cảm giác ‘‘tập trung vào hiện tại’’ và sẽ có khuynh hướng ‘‘tương lai hóa’’ (futurizing) các sự việc, từ đó tạo nên những tiên đoán có tính tiêu cực, diễn giải sai lầm và hình thành những niềm tin phi lý. Khi lo âu, người ấy tập trung vào một cái gì đó không có ngay trong hiện tại, vì thế anh ta sẽ không thể tập trung năng lượng đầy đủ để hỗ trợ cho việc thực hiện các hoạt động và hoàn tất được một gestalt (ảnh không liên quan đến nền, trải nghiệm không liên quan đến bối cảnh).

Sự bế tắc (impasse)

Khi những sự hỗ trợ thông thường bị mất đi mà những sự hỗ trợ mới chưa được khỏi động, người ta sẽ không biết mình liệu có đủ sự hỗ trợ cần thiết để có thể tiếp tục tồn tại hay không. Sự bế tắc xảy ra khi hình ảnh về bản thân (self-image) trở nên cứng nhắc, sai lầm và không còn vai trò trong việc tạo dựng một cuộc sống an toàn nữa. Khi một người không còn giữ được hình ảnh bản thân mình như trước đây lúc đó anh ta sẽ cảm thấy bế tắc.

Người bị bế tắc sẽ bị mắc mứu vào những tình thế mà anh ta xem là đáng sợ, không có khả năng quay lui và lo sợ mình sẽ không thể sống nổi nếu tiếp tục đi tới. Họ bị tê liệt, với những năng lượng tâm trí bị phân chia, dằn xé và chống đối nhau, giống như một tài xế giữ một chân đạp ga chân kia đạp thắng vậy! Tình trạng này thường được mô tả bằng những hình ảnh ẩn dụ như ‘‘trống vắng’’, ‘‘đen tối’’, ‘‘đứng bên bờ vực’’, ‘‘lọt vào xoáy nước’’ hoặc ‘‘bị nhấn chìm’’.

Người đang trải qua sự bế tắc sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ để có thể tồn tại. Sự tồn tại đích thực là sự tồn tại với sự nhận thức chính xác, có khả năng đặt cái ngã thực sự của mình vào trong thế gian vào nhìn thấy người khác một cách đúng đắn. Nó được thể hiện thông qua sự sống động, những gestalt hoàn tất, hiểu biết và làm rõ những điều gì là quan trọng. Khi sự hỗ trợ không đầy đủ, khả năng hoàn tất những việc này sẽ thất bại.

Định đề nghịch lý về sự thay đổi

Có một nghịch lý là khi một người càng cố gắng để trở nên cái mà anh ta không thực sự là thì anh ta càng giữ nguyên trạng như cũ không thay đổi. Sự tăng trưởng thực sự không xảy ra khi một người ghét bỏ hoặc từ chối cái ngã của chính mình, mà nó chỉ xảy ra khi người đó nhận biết rõ cái thực tại mà họ đang là. Càng nhận biết rõ bản thân, nhận biết rõ hoàn cảnh và tính cách của mình thì một người mới có thể đi trên con đường tăng trưởng. Khi sống với toàn bộ bản ngã thật của mình, một người mới có thể thực hiện được những hành vi mới và học tập được từ những tiến trình.

Con người thường hạn chế khả năng tăng trưởng của mình bằng cách đồng hóa mình với những cái ngã ‘‘giả’’ (hoặc quá tự cao hoặc quá xấu hổ về hình ảnh bản thân). Cố gắng giữ lấy hình ảnh cái ngã giả tạo này sẽ ngăn trở người ấy tăng trưởng và không ở trong ‘‘cái toàn thể’’. Sự nhận biết cách thức tồn tại của chính mình sẽ bao gồm cả việc thấy được bản thân mình là một con người đáng được yêu thương và trân trọng ngay cả khi vẫn còn nhiều thiếu sót và vẫn phải học hỏi thêm nhiều điều. Những người biết tôn trọng bản thân có thể nhận ra được những hành vi nào là không hiệu quả hoặc gây tổn thương cho người khác mà vẫn không mất đi cái cảm nhận về giá trị của bản thân mình.

Trái lại, cảm xúc đi kèm theo sự cảm nhận rằng mình ‘‘không đạt’’ hoặc ‘‘không được’’ chính là sự hổ thẹn. Trước khi giúp một người có khuynh hướng hổ thẹn nhận biết được một cách đầy đủ về bản thân, điều cần thiết là phải thực hiện một số công việc đặc biệt để tác động vào tiến trình hổ thẹn của họ (Yontef, 1993).

Xem tiếp Phần 2

HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...