Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2022

ĐIỂM GẶP GỠ GIỮA DONALD WINNICOTT VÀ MARTIN BUBER - Phần 1

Tựa gốc: Bản chất của “Khoảng Giữa” trong khái niệm “Khoảng Không gian Chuyển tiếp” của Winnicott và das Zwischenmenschliche của Martin Buber

The Nature of the “In-Between” in D.W. Winnicott’s Concept of Transitional Space and in Martin Buber’s das Zwischenmenschliche

Tác giả: LAURA PRAGLIN
Nguồn: UNIVERSITAS, Volume 2, Issue 2 (Fall 2006)

Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN



Phần 1

Martin Buber (1878-1965), triết gia và nhà thần học người Đức gốc Do Thái và D.W. Winnicott (1896-1971), một bác sĩ nhi khoa và phân tâm gia người Anh đều mô tả những chi tiết sinh động về một thực tại “ở khoảng giữa” (in-between). Mặc dù là những người sống cùng thời, họ lại cách biệt nhau về quê hương và lĩnh vực nghề nghiệp, và họ cũng không quen biết nhau. Tuy nhiên cả hai đều nêu ra trong các tác phẩm của mình một quan điểm có tính bổ sung lẫn nhau rất đáng kể liên quan đến khái niệm về một “khoảng không gian ở giữa” (in-between space) – với Winnicott là “vùng chuyển tiếp” (transitional area), còn với Martin Buber là điều được gọi tên tiếng Đức là das Zwischenmenschliche. Đây là nơi gặp gỡ của tiềm năng (potentiality) và tính đích thực (authenticity), nó không định vị bên trong bản thân (the self), mà cũng không nằm trong thế giới của những sự vụ chính trị hay kinh tế. Trong khoảng không gian này, người ta sẽ tìm thấy những khía cạnh đích thực nhất và sáng tạo nhất của sự tồn tại của cả cá nhân lẫn cộng đồng, bao gồm cả những biểu đạt về nghệ thuật, khoa học và tín ngưỡng.

 
Martin Buber (trái) và Donald Winnicott (phải)


Những ngụ nghĩa có tính sáng tạo và về luân lý (creative and moral implications) tiếp tục cộng hưởng sâu sắc và gây sự chú ý của nhiều học giả gần đây. Nhiều thập niên sau những đóng góp ban đầu của họ, chúng ta chứng kiến một sự chắp nối liên tục của Buber và Winnicott vào trong những bối cảnh làm việc ở nhiều ngành. Nhiều lĩnh vực rất khác nhau như triết học, thần học, chính trị, chăm sóc sức khoẻ, giao tiếp, nghiên cứu về giới và tâm lý học liên tục sử dụng các công trình của hai nhà tư tưởng ấy trong khi kết nối với những chủ đề về tính “liên chủ thể” (intersubjectivity), đối thoại (dialogue) và nghĩa vụ về luân lý (moral responsibility). Chẳng hạn như, về mặt tính thích đáng của khái niệm có tính quan hệ của bản ngã (relational concept of the self), Fishbane đã viết như sau:

Tầm nhìn của ông, dù đã định hình từ nhiều thập niên trước, cũng đã cộng hưởng đáng kể với những phát biểu gần đây trong lĩnh vực trị liệu gia đình và những lĩnh vực khác, những lĩnh vực đang tái định hình những giả định nền tảng về thế nào là nhân vị tính (personhood) và thế nào là trị liệu (therapy). Bên trong các lĩnh vực trị liệu gia đình, phân tâm học, phát triển con người và nghiên cứu về giới, những ý niệm truyền thống về bản ngã (self) đã bị thách thức. Trong những bối cảnh phức tạp về nghiên cứu cũng như lý thuyết, các ý niệm xưa cũ như “tính độc lập” (independence) và sự “chia ly - cá thể hoá” (separation-individuation) cũng đã được đặt trong cách nhìn về cá nhân theo ý nghĩa có tính quan hệ và tương quan phụ thuộc nhiều hơn (in more relational, interdependent terms).

Những khía cạnh có tính đối thoại (dialogical aspects) như thế trong cách nhìn của Buber và Winnicott có ý nghĩa rất đặc biệt trong lĩnh vực tâm lý trị liệu, và phần lớn những bài viết trước đây về hai nhà tư tưởng này cũng đều tập trung vào địa hạt này. Tuy vậy, những khía cạnh then chốt trong tư duy của hai người hiếm khi được khảo sát bên ngoài địa hạt tâm lý học, đặc biệt là bằng cách nào mà khoảng “ở giữa” đó đã có thể chở che cho nền văn hoá và trí tưởng tượng; tạo điều kiện cho nghệ thuật và biểu tượng; và giúp cho sự tái sinh về đạo đức và tinh thần cho thế giới rộng lớn xung quanh.

Buber và Winnicott đều trình bày với những phong cách rõ ràng, ý nhị phù hợp với những lĩnh vực chuyên môn của họ. Cách hành văn của họ đều có kiểu kết thúc để ngỏ (open ended) một cách có chủ đích “với mong muốn để cho các độc giả của họ có thể tự điền thêm những trải nghiệm của chính mình”. Cả hai cũng đáng được chú ý bởi sự tôn trọng trên mức bình thường đối với tính tự chủ cá nhân (individual autonomy), về sự chấp nhận người khác một cách vô điều kiện, và về sự tìm kiếm tính phụ thuộc qua lại (mutuality) trong các mối quan hệ giữa người với người.

Do sự khác biệt về ngành nghề và đào tạo, Buber vẫn duy trì tính mơ hồ và sự hoài nghi về lĩnh vực tâm lý, còn Winnicott thì ít chuyên chú vào các thực tại xã hội và văn hoá. Mặc dù Buber thể hiện sự dè dặt với chiều kích tâm lý, nội tâm của sự tồn tại của con người, ông vẫn không gạt bỏ những khả năng nội thị của khoa học tâm lý miễn là chúng không nhằm định nghĩa về bản chất của cá nhân con người (the essence of the person). Tuy nhiên, Buber thấy tâm lý học nói chung đã nhanh chóng phân loại thế giới và cá nhân con người theo kiểu lưỡng phân - chủ thể và khách thể, và vì thế khả năng để đi vào địa hạt đối thoại sẽ không được đầy đủ. Buber kết luận rằng mặc dù bản chất con người là một sản phẩm mang tính xã hội, các cá nhân vẫn có một sự tự do và trách nhiệm rất lớn. Kết quả là Buber đã khẳng định rằng hãy nên bác bỏ các lý thuyết tâm lý học hành vi (behavioristic psychologies) bởi vì chúng không dành nhiều chỗ cho sự tự do chân thực. Ông tố cáo những loại tâm lý học kiểu này khi chúng cho rằng việc trị liệu thành công khi con người thay đổi và tạo những thói quen mới để thích ứng chúng sao cho phù hợp hơn với những thực tại văn hoá.

KHOẢNG KHÔNG GIAN CHUYỂN TIẾP: GIỮA CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ

(The Transitional Space: Between Subject and Object)

Giống như người thầy Georg Simmel của mình, Buber cố gắng kết hợp triết học với các lý thuyết về xã hội và tâm lý. Trong lời nói đầu quyển die Gesellschaft vào năm 1906, Buber lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm das Zwischenmenschliche, mà sau đó ông đã nói rõ hơn với ý nghĩa là một “địa hạt đối thoại” (dialogical realm), thế giới của mối liên hệ giữa những cá nhân con người. Ông đã đối lập khái niệm này với bình diện phi cá nhân (impersonal domain) của “tính tập thể xã hội” (social collectivity) đặc trưng trong những “xã hội đoàn ngũ hoá” (mass society). Buber đặt trọng tâm vào mối liên hệ có ý nghĩa được ưu tiên theo đuổi trong một nghiên cứu còn phôi thai của ông vào năm 1923, nhan đề I and Thou, trong đó ông mô tả hai cách hiện hữu trong thế gian: thông qua các kiểu thức I-ItI-Thou [Tôi-với-Nó và Tôi-với-Bạn]. Trong địa hạt mối liên hệ kiểu I-It, con người đối xử với nhau như những “đối tượng” (objects – khách thể, vật thể). Trong địa hạt I-Thou, các cá nhân tìm kiếm những mối liên hệ có ý nghĩa với những người khác. Chúng ta phải sống trong cả hai thế giới ấy, Buber khẳng định, tuy chỉ có trong thế giới của mối liên hệ I-Thou, các cá nhân mới có thể liên hệ với toàn thể sự hiện hữu của họ và chỉ ở đó mới có thể diễn ra những đối thoại và quan hệ thực sự. Sự chuẩn nhận thực sự về tính trưởng thành và lành mạnh trở thành sự thương lượng thành công trong bản chất song đôi của sự tồn tại (twofold nature of existence).

Chịu ảnh hưởng bởi hai nhà phân tâm là Sigmund Freud và Melanie Klein, Winnicott cũng đã đưa ra ý tưởng ban đầu liên quan đến vai trò của những “hiện tượng chuyển tiếp” (transitional phenomena) trong sự phát triển đầu đời cũng như trong giai đoạn sống cuối đời. Trái với cả những nhà hành vi học (behaviorists) lẫn những nhà phân tâm cách tân (neo-Freudians), Winnicott còn đoan chắc rằng chủ đề mấu chốt trong tâm lý học đó là những mối quan hệ đặc thù giữa cá nhân với những người khác trong thế giới sống xung quanh, chứ không phải chỉ để thoả mãn những thôi thúc có tính bản năng. Mặc dù Winnicott thấy rằng những “đối tượng” (objects) – một thuật ngữ bao gồm luôn cả những con người – mà qua đó những đứa trẻ thiết lập liên hệ, vẫn bắt buộc phải thoả mãn những bản năng, nhưng sự việc đứa trẻ tham gia với các đối tượng thì cơ bản vẫn là để duy trì một mối quan hệ ngay từ lúc khởi đầu cuộc sống của trẻ.

Trong một bài thuyết trình tại Hiệp hội Phân tâm Anh Quốc vào năm 1966, Winnicott đã mô tả sự tiến triển trong tư tưởng của ông. Đầu tiên ông đã tôn sùng Freud một cách không thắc mắc gì, xem việc chơi và thiết lập biểu tượng (play and symbolism) như là những cách thức giải bày của các cấu trúc trong tâm trí, phóng chiếu một cách khái quát vào thế giới rộng hơn xung quanh. Tuy nhiên, ông đã dần dần nhận ra rằng “Bên trong địa hình tâm trí của mình (his topography of the mind), Freud đã không dành chỗ cho sự trải nghiệm về những sự vật có tính văn hoá. Ông cũng nhận ra rằng đứa trẻ, chẳng hạn như trong lúc chơi, cũng đã có những quan điểm riêng của chính nó, khác với quan điểm của cha mẹ nó và của những người quan sát nó.

Trong một thời gian dài, tâm trí tôi vẫn duy trì trong một trạng thái “không biết” (a state of not-knowing)… Tôi đã lan man với những “hình ảnh đại diện bên trong tâm trí” (‘mental representations)… theo nghĩa đó là những “đối tượng” và những “hiện tượng” (objects and phenomena) định vị bên trong thực tại tâm trí cá nhân, được cảm thấy như là đang ở “bên trong”… ngoài ra, tôi cũng dõi theo những tác động của sự vận hành các cơ chế tâm trí, của “phóng chiếu” và “nhập nội” (projection and introjection). Tuy nhiên, tôi đã nhận ra rằng việc chơi (play) chẳng phải chuyện thuộc về thực tại nội tâm bên trong mà cũng chẳng phải chuyện thuộc thực tại bên ngoài.”

TUỔI NHŨ NHI – KHỞI ĐẦU CỦA “KHOẢNG GIỮA”

(Infancy: The Beginning of the In-Between)

Winnicott chú trọng vào cách làm thế nào mà một đứa trẻ chuyển từ một “cảm nhận về tính toàn năng pha lẫn ảo tưởng” (a sense of illusory merged omnipotence) đối với người mẹ để trở nên nhận biết được về một cấu trúc tâm trí, hoặc có được một “cảm nhận về một bản ngã” tương đối chắc chắn (relatively firm sense of self). Ông cũng đặt ra câu hỏi làm thế nào để một đứa trẻ đương đầu được với sự mất mát đối tượng (object loss) hoặc với một môi trường xã hội không đáp ứng với nó. Phần trung tâm của những mối quan tâm này chính là ý tưởng của ông về những “hiện tượng chuyển tiếp” (transitional phenomena), những điều được nẩy sinh từ tình trạng “làm mẹ vừa đủ tốt” (good-enough mothering) bên trong một môi trường có tính nâng đỡ, khích lệ. Những đối tượng (vật) chuyển tiếp (transitional objects) là những vật sở hữu đầu tiên trong đời của đứa trẻ nhỏ vốn ban đầu “không phải của trẻ” (“not-me” possession), chúng có tính phổ quát và với vô vàn hình thức biến thiên. Chúng bắt đầu có tác dụng khi trẻ ở độ tuổi từ 4 đến 12 tháng, cùng với sự chăm sóc thông thường, tốt lành bởi cha mẹ và trong một môi trường có tính nâng đỡ. Mặc dù chúng là những vật có thật (ví dụ: một tấm chăn hoặc một ngón tay cái), những vật này vẫn không được đứa trẻ tiếp nhận như là những vật hoàn toàn thuộc về thực tại bên ngoài. Chúng có tính biểu tượng cho một “thực tại thứ ba” (symbolic of a third reality) – một khoảng “nằm ở giữa” chủ thể và khách thể (“in between” subject and object) – nằm giữa trạng thái hoà lẫn với mẹ và trạng thái “bên ngoài” và tách mẹ. Những “đối tượng chuyển tiếp” giúp bảo tồn ảo tưởng của trẻ về trạng thái cộng sinh với mẹ, “vì thế cho phép trẻ có ảo tưởng rằng những gì mà trẻ tạo ra là thực sự vẫn tồn tại” (thus allowing the infant the illusion that what the infant creates really exists). Nó giúp điều hoà cho một tiến trình ảo tưởng không thể tránh và vốn có trong khi trẻ đang dần dần thiết lập những đường ranh giới cho cái Tôi của trẻ (ego boundaries) khi trẻ “bắt đầu phân biệt dần giữa huyễn tưởng và thực tế, bên trong và bên ngoài, tương tự và khác biệt”.

Trong khi Winnicott, một bác sĩ nhi khoa và một phân tâm gia, chú trọng đến những trải nghiệm và những thực tại mang tính quyết định trong sự phát triển giai đoạn đầu đời của con người, bao gồm cả những mất mát tình cảm nghiêm trọng có thể dẫn đến những sang chấn tâm lý lâu dài, thì Buber, một triết gia xã hội, lại cho rằng hầu hết những người lớn trưởng thành đều có khả năng thiết lập quan hệ một cách có ý nghĩa, hiếm khi dẫn đến những khiếm khuyết trong sự phát triển về cảm xúc. Buber cũng khác với nhiều nhà tâm lý về việc ông đã cho rằng bên trong đứa trẻ vốn đã “có tính chất quan hệ” (positing an inherent relationality of child) ngay từ giai đoạn đầu đời. “Khởi đầu đã là mối quan hệ - như một thể loại hiện hữu, một tính chất sẵn sàng, một hình thức nắm bắt… đã uốn nắn cho tâm hồn của trẻ; chính đó là một tiên nghiệm (priori) của mối quan hệ, một Thou bẩm sinh (the inborn Thou). Việc này đã làm cho Buber khác biệt với nhiều lý thuyết gia về tâm lý khi những người này cho rằng một đứa trẻ ban đầu đón nhận người mẹ như một “đối tượng từng phần” (part-object), một It, và chỉ dần dần về sau mới quan hệ với mẹ như một “con người toàn thể” (whole person) hay một Thou. Hơn nữa, mối quan hệ giữa đứa trẻ và mẹ của nó, ngay từ lúc đầu, đã là một mối quan hệ có qua có lại theo kiểu I-Thou. Tuy nhiên, sau cùng, Buber viết rằng, đứa trẻ cũng phải “rơi” vào tình trạng biệt hoá và cá thể hoá (“fall” into a state of differentiation and individuation). Tuy thế, đó là một “cú rơi” đáng giá, bởi vì một sự dịch chuyển không thể tránh khỏi từ I-Thou sang I-It mới là một sự hoàn tất mà từ đó giúp làm nên khả năng cho một “sự hội ngộ I-Thou mang tính thực chất” (essential I-Thou encounter). Buber vì thế đã vạch ra sự khác biệt có ý nghĩa giữa một cái Thou trưởng thành hoặc một cái “Thou thực chất ở mức độ tự hiện hữu” (essential Thou on the level of self-being) với một cái Thou kém trưởng thành hoặc một “cái Thou nguyên sơ có trước sự ý thức về tình trạng chia ly của cá nhân” (“primitive Thou [which] precedes the consciousness of individual separateness). Tuy nhiên, làm thế nào để một trẻ nhỏ, khi chưa thể có ý thức đầy đủ về sự chia ly một cách đầy đủ, lại có thể đạt được một sự “xa cách” cần thiết cho sự hình thành mối quan hệ I-Thou? Câu hỏi này vẫn còn là vấn đề đối với một số người phê phán Buber. Buber miêu tả I-Thou nguyên sơ như “một thể loại hiện hữu, một sự sẵn sàng… một tiên nghiệm của mối quan hệ” (“category of being, a readiness. . .the a priori of relation), nó “không dựa trên sự khác biệt giữa tính hợp nhất và sự tách biệt (oneness and separateness), mà dựa vào sự khác biệt mang tính nền tảng giữa một bên là trải nghiệm cụ thể của một trẻ sơ sinh (a newborn’s concrete experience) và bên kia là những điều kiện hiện sinh để đứa trẻ đó nên người (existential conditions which make him human).

I-Thou nguyên sơ (primitive) là sự mô tả về những đặc trưng cơ bản giúp một trẻ nhỏ trở thành con người, trong khi I-Thou “thực chất” (‘essential’) là sự mô tả về kiểu quan hệ diễn ra trong những mối quan hệ đôi bên cùng trưởng thành. Vì thế, I-Thou nguyên sơ biểu thị rằng một thành tố thiết yếu bên trong con người là luôn luôn trong-mối-quan-hệ-với-một-ai-khác.

Mặc dù nó có khả năng cung cấp một nơi ẩn trú và để làm mới, tuy thế, Winnicott và Buber vẫn khẳng định rằng cái thế giới ở “khoảng giữa” này chẳng bao giờ có thể làm mất đi hoặc thay thế cho cả thế giới bên trong lẫn thế giới bên ngoài. Dù còn nhỏ hay đã lớn, chúng ta vẫn không thể cứ mãi mãi ở trong địa hạt của khả năng sáng tạo và chuyển đổi này, ngay cả khi nó là một phần có thật và đích thực của sự tồn tại của chúng ta. Buber và Winnicott vì thế đã từ chối việc trở thành những “người sùng bái theo kiểu tân lãng mạn” đối với cảm nhận và tính chủ quan (neo-romantic worshippers of feeling and subjectivity). Họ né tránh một kiểu quan điểm nhị nguyên như thế, và theo cách nói của Buber, họ không khuyến khích sự bài bác một thế giới của quan hệ kiểu I-It, thay vì thế họ đề xuất một sự hoà nhập sâu giữa địa hạt I-It với địa hạt I-Thou.

Giống như một đứa trẻ, chúng ta phải luôn quay trở lại với “nỗi ưu phiền đáng giá về số phận của chúng ta” (exalted melancholy of our fate) trong cõi giới I-It: Tuy thế, Buber khẳng định rằng ngay trong bầu khí phàm trần này, chúng ta vẫn có thể đòi hỏi một cảm nhận về ý nghĩa sống (sense of meaning), vì “những địa hạt của Thou bị chuyển đổi thành của It đều vẫn có nó trong bản chất để một lần nữa lại thay đổi trở lại vào trong cái hiện tại” (these Thou’s which have been changed into It’s have it in their nature to change back again into presentness).

Vật chuyển tiếp của Winnicott, tự nó là một ảo tưởng, một cách nghịch lý đối với tất cả mọi người, nó vẫn như là “cơ sở khởi đầu của sự trải nghiệm”. Vùng trải nghiệm trung gian này, trong đó có vật chuyển tiếp, vẫn được gìn giữ trong suốt cuộc đời, “dưới hình thức những trải nghiệm sâu sắc thuộc những lĩnh vực nghệ thuật, tín ngưỡng, cuộc sống tưởng tượng và những công trình khoa học sáng tạo”. Thế giới “ở khoảng giữa” của Winnicott không bị lắc lư, giao động giữa ThouIt như của Buber, mà vẫn là một khái niệm ổn định, bền vững, sẵn sàng để vẽ nên phần còn lại trong cuộc sống của chúng ta.

Xem tiếp Phần 2

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...