Tựa gốc: Bản chất của “Khoảng Giữa” trong khái niệm “Khoảng Không gian Chuyển tiếp” của Winnicott và das Zwischenmenschliche của Martin Buber
The Nature of the “In-Between” in D.W. Winnicott’s Concept of Transitional Space and in Martin Buber’s das Zwischenmenschliche
Tác giả: LAURA PRAGLIN – Giáo sư về Công tác Xã hội, Đại học Northern Iowa, Hoa Kỳ
Nguồn: UNIVERSITAS, Volume 2, Issue 2 (Fall 2006)
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
Xem lại Phần 1
Phần
2
NHỮNG
PHẢN ẢNH VỀ TRÍ TƯỞNG TƯỢNG
Điều then chốt trong địa hạt “ở giữa” (“in-between”
realm) của trẻ nhỏ bao gồm những huyễn tưởng, nhưng khả năng gợi lên huyễn tưởng
trước tiên lại phải cần đến những đáp ứng nhạy bén của những người lớn xung
quanh trẻ. Chúng ta nhất trí rằng đừng bao giờ thách thức đứa trẻ như là: “Con
đã tạo ra vật này hay là chỉ tiện thể tìm thấy nó nằm ở đâu đó?”, Winnicott đề
nghị “Điều cần nói là tính chất cốt yếu của những hiện tượng chuyển tiếp và vật
chuyển tiếp là ở chỗ chất lượng của thái độ của chúng ta khi chúng ta quan sát
chúng”. Hậu quả là, thông qua những vật chuyển tiếp, những vật sở hữu ban đầu
“không phải của đứa trẻ” (not-me), đứa trẻ lần đầu tiên trong đời vừa sử dụng
biểu tượng vừa trải nghiệm sự vui chơi.
Mặc dù hơi dè dặt với địa hạt tưởng tượng hơn
khi so với Winnicott, Martin Buber đã mô tả sự tương tác của một đứa trẻ với một
con gấu bông theo kiểu I and Thou
tương tự như Winnicott. Trải nghiệm của đứa trẻ không phải như đang trong mối
quan hệ với một đồ vật, mà là “trong mối tương quan của đứa trẻ - chắc hẳn chỉ
là “tưởng tượng” – với một thứ gì đó rất sống động và rất hiệu quả đối với nó. Điều
này, Buber lưu ý, chính “là bản năng biến mọi vật trở thành Thou, để tạo lập mối quan hệ với cả vũ
trụ. Từng mẩu âm thanh rời rạc, vô nghĩa vẫn phát ra đi vào khoảng không, nhưng
đến một ngày kia, chúng sẽ trở thành một cuộc đối thoại”.
Lời bình của Buber liên quan đến tầm quan trọng
cốt yếu của sự đối thoại đã gợi lên câu chuyện của Winnicott về một đứa bé trai
với sợi dây của cậu ấy. Winnicott đã được yêu cầu đánh giá cho một cậu bé, khi
mà phương tiện chủ yếu mà cậu bé giao tiếp đó là một sợi dây mà cậu luôn mang
bên mình. Nỗi ám ảnh với sợi dây của cậu bắt đầu từ khi cậu bị tách ra khỏi người
mẹ bị trầm cảm của cậu, và nỗi ám ảnh đó càng mạnh hơn vào mỗi khi người mẹ có
những đợt trầm cảm và cậu bị tách mẹ. “Sợi dây có thể được xem như một sự vươn
dài ra của tất cả các kỹ thuật giao tiếp khác”, Winnicott cho rằng “Sợi dây
giúp kết nối, cũng như khi nó được dùng để cột đồ đạc và làm cho những vật liệu
tách rời được giữ lại với nhau. Theo cách này, sợi dây có một ý nghĩa biểu
trưng. Winnicott cho rằng nếu sợi dây vẫn tách rời khỏi một “điều cụ thể sống động”
(lived concreteness – Theo ngôn từ của Buber), tức là mong muốn ban đầu được
duy trì sự tiếp xúc với mẹ, thì có nhiều khả năng rằng đứa trẻ đó có thể được
giúp. Nhưng nếu sợi dây đó chỉ có tính biểu tượng, không còn giữ ý nghĩa nguyên
ban đầu, thì việc chữa lành sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Tình trạng gay go mà
Winnicott quan sát được đó là “chức năng của sợi dây đang bị thay đổi từ sự
giao tiếp chuyển sang thành sự khước từ việc chia ly” (the function of the
string is changing from communication into a denial of separation).
Như một sự khước từ việc chia ly, sợi dây trở
thành một sự vật tự trong chính nó (a thing in itself). Khi niềm hy vọng vắng
bóng và sợi dây đại diện cho một sự khước từ việc chia ly, một tình trạng phức
tạp hơn rất nhiều sẽ nẩy sinh – một tình trạng rất khó chữa lành, do bởi những
điều nẩy sinh thứ phát sẽ vượt quá những kỹ năng có thể có bất cứ khi nào một đối
tượng cần phải được xử lý để có thể trở nên làm chủ được nó”.
NGHỆ
THUẬT VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO
Đối với Winnicott, cuộc sống tự nó cũng luôn
luôn được biểu thị dưới hình thức biểu tượng, vì nó đóng vai trò như một phần
tích hợp trong việc định hình và nhận biết về khoảng không gian chuyển tiếp (transitional
space). Tuy nhiên, một cách nghịch lý, ngay cả một nghệ sĩ cũng không hoàn toàn
có thể tạo nên những biểu tượng và những hình thái mới, mà giống như đứa trẻ, họ
chỉ có thể khám phá chúng. Hậu quả là, Winnicott lưu ý, “sự sống sáng tạo
(creative living), trong từng trải nghiệm chi tiết của nó, đều liên quan đến một
thế lưỡng nan về triết lý (philosophical dilemma), do bởi trong thực tế, với sự
lành mạnh của mình, chúng ta chỉ sáng tạo nên những gì chúng ta tìm thấy”.
Sự sáng tạo ấy, theo Winnicott – dù là về nghệ
thuật, tôn giáo hay khoa học – đều là “việc thực hiện nẩy sinh từ sự hiện hữu”
(“the doing that arises out of being”). Dùng cách nói của Winnicott, chúng ta
có thể nói rằng, chẳng hạn như, người nghệ sĩ đang diễn đạt sự hiện hữu của
mình bằng cách kiến tạo nên một vùng chuyển tiếp có khuôn khổ qua đó sự sáng tạo
tìm thấy cách để diễn đạt (the artist, for example, expresses his/her being by
constructing a framed, transitional area in which creativity finds expression).
Người nghệ sĩ sáng tạo và tái tạo những tiến trình vô thức, và trình bày những
tiến trình này theo một cách thức cộng hưởng với những cảm quan chung của chúng
ta về những biểu tượng. Bằng cách diễn đạt những biểu tượng được chia sẻ này,
người nghệ sĩ mời gọi chúng ta đi vào vùng trung gian của sự trải nghiệm này (the
artist invites us into this intermediate area of experiencing). Chẳng hạn một
nhà thơ, chọn lựa những biểu tượng và những hình ảnh từ một ngôn ngữ chung, và
thấy bên trong chính mình không sẵn có sự thoải mái. Nhà thơ mời gọi những người
khác đi vào trong “khoảng giữa” ấy (in-between space), bên ngoài vùng tâm lý chủ
quan, riêng tư, và khoảng giữa ấy sẽ phục vụ như một khoảng nghỉ (resting
place) giữa thực tại bên trong và thực tại bên ngoài, giữa tâm trí và nền văn
hoá. Vì thế, thong qua nghệ thuật, người ta có thể di chuyển từ thế giới riêng
tư ra ngoài môi trường xã hội. Độc giả cũng tìm thấy ý nghĩa, bởi vì giờ đây họ
cũng chia sẻ khả năng diễn đạt các trải nghiệm. Sự diễn đạt bằng cách sáng tạo
– thông qua nghệ thuật, triết học, tôn giáo hoặc toán học – do vậy có thể giải
quyết các tình huống và tạo điều kiện cho những khả năng mới. Theo cách này,
cũng giống như cách đứa trẻ trải nghiệm khi đang chơi tưởng tượng.
Buber dường như cũng đồng ý rằng sự sáng tạo
và sự khám phá các dạng thức cũng xảy ra trong địa hạt của khoảng “ở giữa”
(in-between). Maurice Friedman cho rằng Buber xem “một tác phẩm nghệ thuật
không phải là ấn tượng về tính khách quan tự nhiên, và cũng không phải là sự diễn
đạt của tính chủ quan về tinh thần” (a work of art is not the impression of
natural objectivity nor the expression of spiritual subjectivity). “Nó là chứng
nhân cho mối liên hệ giữa những chất liệu từ người và chất liệu từ sự vật” (It
is the witness of the relation between the human substance and the substance of
thing). Nghệ thuật là “địa hạt của khoảng
ở giữa mà nay đã trở nên một hình thái (Art is “the realm of ‘between’
which has become a form). Trong quá trình sáng tạo, người nghệ sĩ khám phá ra
tiềm năng của hình thái, khi anh ấy/cô ấy đối diện với những gì vượt lên trên bản
ngã của mình. Nhưng hình thái tự nó lại kết tinh thành cấu trúc, và vì thế trở
nên không còn tính chất tức thời nữa (non-immediacy).
NHỮNG
PHẢN ẢNH VỀ VĂN HOÁ
Trong tiểu luận The Concept of the Healthy Individual (Khái niệm về một cá nhân
lành mạnh), Winnicott cho rằng con người sống trong ba cõi giới: bên trong, bên
ngoài và khoảng chuyển tiếp (the inner, the outer, and the transitional) – với
khoảng chuyển tiếp là vùng trải nghiệm văn hoá (the area of cultural experience).
Winnicott viết, trải nghiệm về văn hoá bắt đầu từ vui chơi, và sau đó, “tiếp tục
đi đến khu vực toàn thể những di sản của loài người, bao gồm các loại hình nghệ
thuật, các huyền thoại lịch sử, diễn trình của các tư tưởng triết học, những điều
kỳ diệu của toán học, về sự vận hành của những nhóm người, và về những tôn
giáo”. Trong ba cõi giới này, vùng trải nghiệm văn hoá là vùng có biến thiên
nhiều nhất theo Winnicott. Đó cũng là vùng lành mạnh nhất, bởi vì đây không chỉ
là khu vực của đùa vui, mà “còn là vùng tích luỹ tất cả văn hoá của nhiều ngàn
năm trước” (Nguyên văn: “but also all the accumulated culture of the past five
to ten thousand years”. Cũng chính ở đây một tâm trí tốt lành có thể được vận
hành tốt nhất và lòng tin cũng có thể được hình thành và gia cố”
Buber tin rằng địa hạt đối thoại (dialogical
realm), gọi tên là das
Zwischenmenschliche, cũng có tầm
quan trọng tương tự trong việc bảo tồn nền văn hoá. Tuy nhiên, Buber đã vượt
lên trên sự diễn đạt ban đầu của ông về tâm lý học bình dân lãng mạn và chủ
thuyết thần bí (romantic folk psychology and mysticism), và khẳng định rằng văn
hoá phải thống hợp lại vào trong các chiều kích về đạo đức và xã hội (incorporate
ethical and social dimensions). Buber vì thế đã sử dụng địa hạt của das Zwischenmenschliche như một khoảng
không gian tiềm năng cho việc tái tạo lại những mối quan hệ của con người bên
trong một cộng đồng có tính trách nhiệm về mặt luân lý (das Zwischenmenschliche
as a potential space for the reconstruction of human relations within a morally
accountable community).
Trong lĩnh vực triết học xã hội của mình,
Buber đã tìm kiếm những yếu tố của một cộng đồng trung thực, nơi có thể diễn ra
sự gặp gỡ thực sự. Ông thường nói về das
Gemeinschaft [Từ tiếng Đức có nghĩa là: quan hệ xã hội, hoặc cộng đồng gắn
bó – ND] như một sự định vị cho das
Zwischenmenschliche, trong đó chứa đựng “một ma trận những mối quan hệ nồng
ấm và tin cậy, nhưng bị lu mờ đi bởi những quan hệ theo kiểu toan tính, cạnh
tranh của cuộc sống trưởng giả thành thị”. Ngoài ra, quan điểm của Buber cho rằng
Gemeinschaft không đơn giản chỉ là một
thứ ký ức khó hồi phục do vậy không thể tái tạo lại được. Buber viết một Gemeinschaft thực thụ sẽ cho phép “cái Thou trở thành hiện thực”. Tuy nhiên,
trong một đời sống tập thể khi đang tồn tại như một cá thể, không phải tự thân
“thế giới của It” (It-world) là điều xấu mà chính sự chi phối (domination) của nó trên toàn bộ đời sống mới là điều
không hay.
Buber đưa ra một thể loại cái “Chúng Tôi thực
chất” (the essential We) trên bình diện cộng đồng tương đương với cái “Thou thực
chất” (the essential Thou) trên bình diện cá nhân. Tương tự, ông cũng nói về
cái “Chúng Tôi nguyên sơ” (primitive We) trên cấp độ tập thể/nhóm tương đương với
cái “Thou nguyên sơ” (primitive Thou) trên cấp độ cá nhân: “Cái Chúng Tôi
nguyên sơ có trước tính cá nhân và tính độc lập thực sự, trong khi cái Chúng
Tôi thực chất xuất hiện khi những con người độc lập cùng đến với nhau trong những
mối quan hệ và tiếp xúc trực tiếp một cách thực chất”. Thông qua cái Chúng Tôi
thực chất này, con người có thể vượt lên trên sự phi nhân tính của nền văn hoá
theo kiểu đại chúng hoá (Through this essential We, humans can transcend the
impersonality of mass culture). Như Buber đã viết trong Between Man and Man, một người “thực sự được cứu vớt từ ‘một người’
không phải bằng cách chia ly mà chỉ có thể bằng cách gắn kết với một sự hiệp
thông chân thành” (one is truly saved from the ‘one’ not by separation but only
by being bound up in genuine communion).
Buber kêu gọi tái cấu trúc lại xã hội trở
thành “một cộng đồng của những cộng đồng” (a community of communities), việc
này sẽ cố gắng chuyển đổi một “xã hội đoàn ngũ hoá” (mass society) trở thành
cái “Chúng Tôi thực chất” (essential We) của Gemeinschaft (một cộng đồng gắn bó). Tuy nhiên, một cộng đồng thực
sự chỉ xuất hiện khi mọi người đảm đương những trách nhiệm cá nhân và có thể hy
sinh cho nhóm. Triết học xã hội của Buber khác xa với những người theo xu hướng
xã hội không tưởng (utopian), trong khi nhận ra những khó khăn như thế nào
trong kỷ nguyên của một thứ xã hội đoàn ngũ hoá phi nhân tính và tái điều hướng
bản chất con người theo hướng có trách nhiệm vì sự toàn vẹn của toàn thể cộng đồng.
Ông không ấp ủ những ý thức hệ chính trị, mà chỉ là những quan điểm về những cộng
đồng khác nhau trong đó nổi trội lên những mối quan hệ không có tính bóc lột
nhau (non-exploitative relations)”.
Mặc dù Winnicott không phát biểu những chi tiết
tương tự về những động lực trong văn hoá (dynamics of culture), ông vẫn xem các
hình thái văn hoá là những thứ vốn có tính khả dụng và sáng tạo. Do sống trong
hoàn cảnh xã hội ở Anh Quốc, Winnicott dường như có tính thực tế hơn và có thái
độ tích cực hơn đối với cả thể chế quân chủ lẫn nền dân chủ phổ biến rộng rãi.
Trong tiểu luận Some Thoughts on the
Meaning of Democracy (Một vài Suy nghĩ về Ý nghĩa của Nền Dân chủ),
Winnicott xem nền dân chủ là một hình thái văn hoá có tính trưởng thành hơn, chẳng
hạn, nó tôn trọng tính riêng tư khi thông qua những lá phiếu bầu kín (secret
ballot). Tuy nhiên, Winnicott viết, mối đe doạ chính đối với nền dân chủ đó là
khi những người dân không đủ trưởng thành để duy trì và nuôi dưỡng nó. Khi đó,
những thể chế toàn trị có thể gây đe doạ thông qua việc kêu gọi về một tình trạng
chắc chắn thần kỳ, kéo theo việc một số người có mong muốn gây hại cho những
người khác.
Winnicott nhận thấy rằng những mong muốn gây
hại hoặc bị gây hại như thế là kết quả từ sự thất bại trong việc thiết lập những
đối tượng/vật chuyển tiếp (transitional objects), mà thường là những hệ quả từ
sự tác động đầu đời bởi những người khác. Trong đời sống tập thể ở người trưởng
thành, sự khiếm khuyết về phát triển này sẽ dẫn đến một nhóm người đặc biệt để
áp đặt những “ảo tưởng” (illusions) lên người khác. Những ảo tưởng, “điều mà
trong đời sống người lớn vốn hiện diện trong nghệ thuật và tôn giáo”, Winnicott
lưu ý, “đã trở thành chỉ dấu của sự điên loạn khi một người trưởng thành đặt ra
một yêu sách quá mạnh mẽ lên trên tính nhẹ dạ của những người khác, bắt buộc họ
phải chấp nhận sự chia sẻ một ảo tưởng vốn không phải của họ. Sự thấu rõ của
Winnicott ở đây có thể cung cấp một số lý lẽ để giải thích về sự xuất hiện của
Chủ nghĩa Quốc Xã (ở Đức), một điều mà tâm lý học xã hội của Buber (Buber’s
social psychology) rất khó để hiểu được.
Winnicott nhận thấy rằng những người lành mạnh
duy trì cả lòng tự tôn lẫn sự hoài nghi, và cũng phân biệt được sự khác nhau giữa
xung đột bên trong và xung đột bên ngoài (inner and external conflict). Ông viết,
“Khi những con người lành mạnh cùng đến bên nhau, mỗi người họ sẽ đóng góp phần
mình vào một thế giới vẹn nguyên (a whole world), bởi vì mỗi người mang đến một
con người vẹn nguyên (a whole person)”. Họ có khả năng trở nên trầm uất, thay
vì gia nhập vào những cơn hưng cảm tập thể và tìm kiếm sự thống trị của người
khác.
Cảm quan về một nền văn hoá phong phú và có
tính nuôi dưỡng có thể được thấy ở việc Winnicott dùng hình ảnh “một môi trường
có tính nâng đỡ” (holding environment) của người mẹ và đứa con suy rộng ra cho
thế giới rộng lớn hơn bên ngoài, một môi trường làm nên cảm nhận về sự an trú
và đồng hành và một thực tế rằng chúng ta là những con người”. Những âm vang
tương tự về một “môi trường có tính nâng đỡ” này cũng có thể được tìm thấy
trong khái niệm Gemeinschaft của
Buber, một khái niệm xác quyết về tình đồng chí và tính cộng đồng trong khi
đương đầu với sự áp bức và thống trị.
Buber viết, bệnh lý thể hiện những sự bóp
méo, vừa do những cá thể tách mình ra khỏi thế giới xung quanh, lẫn do xã hội
chối bỏ những cá nhân, từ chối mang lại sự thừa nhận. Điều bắt buộc của một nền
văn hoá lành mạnh, vì thế, là phải mang đến một cách cư xử không chỉ nhằm “hoà
nhập” (integrate) hoặc “điều chỉnh” (adjust) một cá nhân vào trong xã hội đang
thịnh hành, mà là phải tìm cách phục hồi lại những mối quan hệ có tính đối thoại
vốn đã bị gián đoạn của cá nhân ấy.
Sau cùng, cả Buber và Winnicott đều thấy rằng
một cuộc sống hợp quần lành mạnh đòi hỏi các thành viên của nó phải đảm nhận
trách nhiệm liên tục vì hạnh phúc của những người khác trong nhóm. Winnicott kết
luận “Chính con người mới là những tác nhân có khả năng huỷ diệt thế giới. Nếu
thế, có lẽ chúng ta sẽ chết… hãy biết rằng đây không phải là sự lành mạnh, mà
là sự sợ hãi, một phần nó là sự thất bại của những người lành mạnh và của những
xã hội lành mạnh trong việc mang theo những thành viên bệnh lý”. Để quan tâm
chăm sóc cho người khác, đối với cả Buber và Winnicott, những cá nhân phải vươn
ra khỏi chính mình với một cảm quan mới về sự can đảm. Việc đảm nhận những
trách nhiệm vì người khác sẽ khích lệ và hồi phục những mối quan hệ chân thành
giữa những con người, và làm như thế sẽ tạo điều kiện cho sự tái tạo lại thế giới
về mặt đạo đức và tinh thần.
Khoảng không gian chuyển tiếp (transitional
space), hoặc das Zwischenmenschliche,
vì thế vẫn là yếu tố bắt buộc đối với việc bảo tồn một cộng đồng thế giới có
trách nhiệm về mặt luân lý (a morally accountable world community), trong đó khả
năng thiết lập những mối quan hệ có ý nghĩa với người khác vẫn tiếp tục như một
thực tại thường xuyên và có tính lâu dài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét