Tựa gốc bài viết: "Cô y
tá! Con Muốn Mẹ!” - Sự đồng cảm như một phương pháp luận trong Phim tài liệu
"Một đứa trẻ hai tuổi vào bệnh viện" (1952)
“Nurse! I Want My Mummy!” -
Empathy as Methodology in the Documentary Film "A Two-Year-Old Goes to
Hospital" (1952)
Tác giả: JUSTYNA WIERZCHOWSKA
Nguồn: pismowidok.org
View: Theories and Practices of
Visual Culture (Phiên bản tiếng Anh)
Widok. Teorie i Praktyki
Kultury Wizualnej (Phiên bản tiếng Ba lan)
Lược dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
Phần
1
GIỚI
THIỆU
Một Đứa Trẻ Hai Tuổi Đi Bệnh Viện là một bộ
phim tài liệu, được thực hiện vào năm 1952 bởi chuyên viên công tác xã hội lâm
sàng (psychiatric social worker) đồng thời là một nhà phân tâm người Anh James
Robertson. Tác phẩm đen trắng, dài 30 phút này, với giọng đọc lồng tiếng nhưng
có nhiều phần im lặng, minh họa tác động của sự mất mát và đau khổ mà một đứa
trẻ bị chia cắt khỏi cha mẹ trong thời gian nằm viện. Mặc dù, từ quan điểm ngày
nay, có vẻ rõ ràng rằng sự hiện diện của người chăm sóc chính (caregiver) là điều
cần thiết cho sức khỏe của một đứa trẻ nằm viện, nhưng việc không chấp nhận cho
cha mẹ đến các khoa nhi đã từng hoàn toàn được xem là điều hiển nhiên. Trên thực
tế, nó là kết quả của một cuộc đấu tranh kéo dài hàng thập kỷ và việc ra mắt cuốn
phim của Robertson tạo nên một đóng góp quan trọng nhưng ban đầu đã gây ra rất
nhiều tranh cãi. Khi bộ phim được phát hành, người ta thường cho rằng không nên
đến thăm trẻ em nằm viện vì những cuộc thăm viếng như vậy bị coi là gây rắc rối
và không cần thiết. Hầu hết các bệnh viện ở Anh đều đã hạn chế sự hiện diện của
phụ huynh. Theo quan điểm hiện tại, theo các thống kê đến giữa thế kỷ 20, vẫn
chưa có gì xuất hiện đủ để gây sốc. Vào năm 1949, ba năm trước khi Robertson
ghi hình A Two-Year Old Goes to Hospital,
một cuộc khảo sát tại các bệnh viện ở Luân Đôn cho thấy rằng, tại Bệnh viện
Guy, việc thăm viếng tại bệnh viện bị hạn chế vào Chủ nhật từ 2-4 giờ chiều; ở
St Bartholomew, được phép vào các ngày thứ tư từ 2–3:30 chiều; ở St Thomas's
không được viếng thăm nào trong tháng đầu tiên (!) và các bậc cha mẹ chỉ có thể
thấy con mình ngủ trong khoảng từ 7-8 giờ tối; ở Bệnh viện London không được thăm
viếng cho trẻ dưới 3 tuổi và cha mẹ chỉ có thể nhìn thấy con mình qua các vách
ngăn; tại Bệnh viện Tây London thì không có bất kỳ người nào đến thăm. Trước
khi việc chấp nhận cho cha mẹ đến thăm con ở các khoa nhi trở thành tiêu chuẩn,
một số bác sĩ tin rằng “nếu trẻ em bị bỏ mặc trong một hoặc hai ngày, chúng sẽ
quên cha mẹ của chúng” và Hiệp hội Nhi khoa Anh, trong bản ghi nhớ năm 1958, đã
không làm gì ngoại trừ suy đoán ngắn gọn rằng “ Việc đưa một đứa trẻ nhỏ vào bệnh
viện, liên quan đến việc xa nhà, có thể là một bất hạnh hoàn toàn khác với bất
hạnh gây nên do bệnh tật". Phương thức dự kiến của từ “có thể” nói lên
nhiều điều về tình trạng mù quáng và thiếu hiểu biết khá phổ biến về tình trạng
thiếu thốn tình cảm của trẻ em đang diễn ra hàng ngày trong bệnh viện. Thậm chí
ngày nay, có lẽ khó mà hiểu được điều gì, mới chỉ cách đây 70 năm, đã tạo thành
quy định chính thức trong việc nhập viện ở trẻ em.
Việc hạn chế đến thăm trẻ nằm viện có liên
quan mật thiết đến sự phát triển chuyên ngành tâm lý trẻ em và trong văn hóa chung
vẫn có sự xem nhẹ đối với tầm quan trọng của mối quan hệ chính yếu trong cuộc sống
đầu đời của trẻ. Đặc biệt là ở Anh, dưới ảnh hưởng của Sigmund Freud và người đồ
đệ trung thành của ông là Melanie Klein, giới phân tâm học ở Anh đã không xem
các trải nghiệm thực tế của trẻ em là có nhiều ý nghĩa. Trong các bài viết và
thực hành lâm sàng của mình, Klein đặc biệt ưu tiên vai trò của những huyễn tưởng
vô thức của đứa trẻ về mẹ của nó hơn là những tương tác thực sự giữa đứa trẻ và
mẹ. Bản thân Freud chỉ nêu lên các chủ đề về người mẹ một cách hời hợt. Kết quả
là, khi Robertson trình bày bộ phim của mình cho Hiệp hội Y học Hoàng gia vào
năm 1952, hầu hết người xem đều không sẵn lòng chấp nhận việc một đứa trẻ sẽ trải
qua đau thương và buồn khổ [Nguyên văn: “mourn or experience grief” – Giống như
tình huống mất mẹ - ND] khi bị chia ly với mẹ.
Điều quan trọng là vào nửa đầu thế kỷ 20 ở
Anh, có ít nhất hai trung tâm đã thách thức những quan điểm được chấp nhận phổ
biến này: Hampstead Nurseries và Tavistock Clinic, cả hai đều nằm ở Luân Đôn.
Hai tổ chức này, vốn duy trì mối quan hệ làm việc chặt chẽ với nhau, là chìa
khóa để khám phá các cơ chế định hướng cho mối quan hệ gắn bó cơ bản (primary
bond) và thúc đẩy những thay đổi trong tâm lý học phát triển. Chính tại
Hampstead Nurseries, Anna Freud đã hình thành học thuyết về tâm lý trẻ em dựa
trên thực nghiệm của riêng bà, học thuyết này hình thành nên một giải pháp nhằm
thay thế cho các ý tưởng của Klein. Anna Freud tin rằng chính nhờ sự ràng buộc
sống động, bền vững giữa một đứa trẻ và một người trưởng thành ổn định về mặt cảm
xúc mà đứa trẻ có thể phát triển một ý thức tự lập không bị xáo trộn. Và chính
tại Tavistock Clinic, John Bowlby, cùng với Mary Ainsworth, đã phát triển cái
được gọi là lý thuyết gắn bó (attachment theory), xem sự gắn bó như một đặc điểm
cố hữu và quan trọng của con người. Cũng tại Tavistock Clinic, Donald Woods
Winnicott đã phát triển nên các khái niệm về “người mẹ vừa đủ tốt” (the
good-enough mother) và “một môi trường có tính nâng đỡ” (the holding
environment), chuyển trọng tâm từ một “phân tâm học định hướng theo người bố” (paternally-oriented
psychoanalysis) sang một “địa hạt về người mẹ” (the realm of the maternal). Mặc
dù theo quan điểm ngày nay, người ta có thể dễ dàng công kích Bowlby và
Winnicott vì sự “thiết yếu hoá vai trò của người mẹ” (essentializing motherhood),
[ngày nay khái niệm “làm mẹ” (mothering) được hiểu không chỉ dành cho các bà mẹ
ruột] người ta cũng không thể đánh giá quá cao việc các tác giả này kiên quyết ủng
hộ sự gắn bó và vai trò làm mẹ (mothering) như là những điều có tính quyết định
đối với sự phát triển của con người. Nói tóm lại, các nhà tâm lý học và nhân
viên xã hội tập trung xung quanh Hampstead Nurseries và Tavistock Clinic đã tạo
nên tiếng nói mạnh mẽ trong cuộc tranh luận liên quan đến tâm lý trẻ em. Cuốn
phim A Two Year Old Goes to Hospital của
Robertson, đã
xuất phát từ môi trường tri thức này, nổi bật lên như một trong số những kết quả
đáng hoan nghênh nhất của nó.
A Two Year
Old Goes to Hospital, trái ngược với các bộ phim tài liệu về tình trạng chia ly khác ở
trẻ em được thực hiện cùng thời, đã sử dụng một bộ thiết bị để gợi ra cho người
xem sự đồng cảm với nhân vật chính của bộ phim, một đứa trẻ chỉ ở tuổi mới biết
đi. Cụ thể hơn, mặc dù bộ phim theo định dạng phim tài liệu thông thường, nhưng
nó tìm cách thu hút người xem để khiến họ nhận ra tác động cảm xúc của việc phải
nhập viện một mình từ góc nhìn của một đứa trẻ, cho phép người xem xác định và
đồng cảm với nhân vật chính. Bộ phim đặt ra những câu hỏi sau: Làm thế nào các
nhân viên y tế có thể đối phó với nỗi tuyệt vọng của những bệnh nhi của họ thay
vì hiểu sai hoặc bỏ qua nó? Làm thế nào người ta có thể nhìn thấy được nỗi đau
khổ của những đứa trẻ khi bị bỏ rơi bởi những người chăm sóc chính của chúng?
Những thay đổi nào cần được thực hiện trong thói quen của bệnh viện để giảm bớt
sự tuyệt vọng của trẻ?
NHỮNG
DIỄN NGÔN CỦA GIỚI Y KHOA (MEDICAL DISCOURSE) VỀ SỰ CHIA TÁCH CHA MẸ VÀ CON CÁI TRONG BỆNH
VIỆN VÀO NHỮNG NĂM 1940 VÀ 1950
Mối quan tâm của giới y học và học thuật Anh
đối với tác động của sự chia ly cha mẹ - con cái bắt nguồn từ Thế chiến II khi
nhiều trẻ em mồ côi hoặc phải sơ tán khỏi cha mẹ của chúng. Như Frank van der
Horst và René van der Veer đã lưu ý, vào cuối những năm 1930, đã xuất hiện “những
ấn phẩm đầu tiên về tác hại tiềm tàng của việc chia ly mẹ con tạm thời”. Hai
tác giả này đã nghiên cứu sâu rộng về sự chia cắt giữa cha mẹ và con cái, sau
chiến tranh, và cuộc tranh luận đã được mở rộng về việc điều chỉnh các quy định
trong việc thăm khám của cha mẹ và sự hiện diện của cha mẹ trong bệnh viện.
Trong bốn thập kỷ sau chiến tranh [Tính từ
sau Thế chiến I đến sau Thế chiến II – ND], cuộc tranh luận đã tạo ra hàng trăm
ấn phẩm, bao gồm các bài báo chuyên môn trên Tạp chí Y khoa Anh và tờ The Lancet, cùng các ấn phẩm khoa học
khác, phim, bài xã luận và thư gửi cho biên tập viên. Cách diễn ngôn của giới y
khoa bị giao động giữa một bên là sự phản kháng nghiêm khắc đối với cha mẹ đi
cùng con cái nằm viện và bên kia là sự thừa nhận những tác động có lợi của sự
hiện diện của họ.
Các ấn phẩm ban đầu, được viết trong Thế chiến
II, tập trung vào những trẻ em mồ côi hoặc sơ tán không cha mẹ. Ngay từ năm
1939, các bác sĩ S.L. Yates và John Rickman đã lưu ý rằng khi một đứa trẻ bị bỏ
rơi, nó sẽ phát triển tình trạng lo âu và các vấn đề về cảm xúc có thể xảy ra
trong tương lai, liên quan đến việc không có người chăm sóc chính của nó. Trong
một lá thư gửi cho The Lancet,
Rickman lập luận rằng: Vào lúc đó, đứa trẻ cần sự an toàn và sự an ủi của những
gương mặt thân quen, và việc tách trẻ khỏi cha mẹ sẽ gây hậu quả nghiêm trọng lên
các mối quan hệ xã hội trong cuộc sống của trẻ sau này.
Cùng năm đó, người cộng tác trong tương lai của
Robertson tại Phòng khám Tavistock, John Bowlby, cùng với Emanuel Miller và
Donald Winnicott, cũng cảnh báo tương tự rằng “việc di tản những đứa trẻ nhỏ
không có mẹ đi cùng có thể dẫn đến chứng rối loạn tâm lý rất nghiêm trọng và
lan rộng”. Những tuyên bố này trùng hợp với các hoạt động của Anna Freud tại
các nhà trẻ nội trú ở Hampstead. Như đã đề cập, Anna Freud nhấn mạnh rằng những
người người lớn chăm sóc cho trẻ, những người đóng vai trò thay thế cha mẹ, nên
phát triển sự gắn bó ổn định và nuôi dưỡng tình cảm với trẻ em. Anna Freud cảnh
báo rằng nếu những người trưởng thành đó vẫn duy trì vẻ xa cách và không có
nhân tính, hoặc nếu họ thường xuyên thay đổi đến mức không thể hình thành sự gắn
bó lâu dài, thì sẽ có nguy cơ cao là những đứa trẻ đó sẽ phát triển những khiếm
khuyết về tính cách và không thích nghi được với xã hội. Robertson làm việc từ
năm 1941 với tư cách là nhân viên xã hội tại Hampstead Nurseries của Anna Freud
và đã cùng chia sẻ quan điểm với bà.
Trong Thế chiến II cũng chứng kiến sự xuất
hiện của các nghiên cứu về nhập viện. Trong số các chủ đề khác, các nghiên cứu
về việc nhập viện đã thảo luận về cái gọi là “hiệu ứng nhập viện” (hospitalization
effect), là một tỷ lệ tử vong cao bất ngờ ở trẻ em. Ví dụ, Harry Bakwin đã phân
tích số lượng trẻ sơ sinh tử vong đáng kinh ngạc trong bệnh viện Bellevue ở New
York. Các ca tử vong ban đầu có liên quan đến việc nhiễm trùng chéo và sử dụng
“những buồng bẹnh nhỏ, ngăn cách, trong đó y tá và bác sĩ được đeo khẩu trang,
trùm đầu và lau dọn cẩn thận để không cho vi khuẩn xâm nhập”, cùng với những hạn
chế nghiêm trọng trong việc thăm khám. Khi các biện pháp phòng ngừa này không
thành công, người ta mới phát hiện ra rằng trẻ đã hồi phục sức khỏe khi trở về
nhà. Điều này dẫn đến việc các bậc cha mẹ được khuyến khích đến thăm và các điều
dưỡng bồng bế, âu yếm những trẻ sơ sinh để cung cấp cho chúng “sự ấm áp và an
toàn mà [trẻ sơ sinh] có được khi tiếp xúc với mẹ hoặc người thay thế.” Kết quả
là tỷ lệ tử vong giảm từ 30 - 35% xuống 10%.
Tình hình bắt đầu thay đổi vào thập niên 1950
do các quan sát lâm sàng (được thực hiện, chẳng hạn như trong các nhà trẻ của
Anna Freud và tại Tavistock Clinic), ngày càng có nhiều ấn phẩm trong lĩnh vực
này và sự gia tăng nhận thức về tầm quan trọng của việc không làm gián đoạn quyền
của người chăm sóc chính đến thăm các bệnh nhi. Thập niên 1950 cũng chứng kiến 3
sự kiện đáng chú ý thúc đẩy những chuyển biến trong các khoa nhi trong bệnh viện.
Hai ấn phẩm đầu tiên là các ấn phẩm chính thức đưa ra các tiêu chuẩn về sự hiện
diện của cha mẹ với trẻ em nằm viện. Đầu tiên là Maternal Care and Mental Health (Sự chăm sóc bởi Mẹ và Sức khỏe Tâm
thần), một báo cáo được viết cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và được xuất bản
vào năm 1951. Nó được viết bởi John Bowlby, người lúc đó là người đứng đầu Đơn
vị Nghiên cứu về Chia ly, sau này là Đơn vị Nghiên cứu Phát triển Trẻ em (Separation
Research Unit, later the Child Development Research Unit) tại Tavistock Clinic và
là người chặt chẽ hợp tác với Robertson (trên thực tế, vào năm 1952, họ đã cùng
giới thiệu cuốn phim A Two-Year Old Goes
to Hospital). Bowlby trước đây đã xuất bản cuốn sách Forty-four Juvenile Thieves (Bốn mươi bốn tên trộm vị thành niên),
dựa trên những quan sát lâm sàng của mình tại Trung tâm Hướng dẫn Trẻ em cho những
đứa trẻ kém thích ứng (Child Guidance Clinic for maladjusted children), ông lập
luận về mối liên hệ giữa hành vi phạm pháp ở tuổi vị thành niên và trải nghiệm
sớm về việc vắng mẹ kéo dài. Trong báo cáo của WHO, ông nói rằng: Điều thiết yếu
đối với sức khỏe tâm thần là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cần được trải nghiệm một mối
quan hệ ấm áp, thân mật và liên tục với mẹ của mình (hoặc người thay thế mẹ),
trong đó cả hai đều tìm thấy sự hài lòng và thích thú. Chính mối quan hệ phức tạp,
phong phú và bổ ích này với người mẹ trong những năm đầu đời, cùng với nhiều
cách khác nhau trong quan hệ với cha và với các anh chị em, là nền tảng cho sự
phát triển tính cách và sức khỏe tâm thần của trẻ.
Bowlby kết luận báo cáo bằng cách nói rằng
“việc đứa trẻ bị thiếu vắng sự chăm sóc thường xuyên của người mẹ có thể gây ra
những ảnh hưởng nghiêm trọng và sâu rộng đến tính cách của nó và cả cuộc đời
sau này của nó”. Do đó, ông khuyến nghị về những việc như: “hãy sống cùng những
trẻ em dưới 3 tuổi, thường xuyên thăm gặp ở những trẻ 3–6 tuổi (hằng ngày nếu
có thể), chỉ định một y tá cho một trẻ, tạo cơ cấu gia đình, duy trì những bệnh
phòng cỡ nhỏ, giữ kỷ luật một cách thư thái, và chuẩn bị cho trẻ trước khi đến
thời gian nhập viện”.
Các biện pháp này đã được củng cố trong ấn phẩm
quan trọng thứ hai của thập niên 1950, Báo
cáo Platt 1959 (1959 Platt Report). Ấn phẩm này được ủy quyền bởiBộ Y tế
Anh, khi bộ này tự nhận thấy mình đang chịu nhiều áp lực do tranh cãi liên tục
xung quanh các hướng dẫn liên quan đến việc nhập viện của trẻ em và việc thăm viếng
của cha mẹ. Được chấp bút bởi Chủ tịch Trường Đại học Phẫu thuật Hoàng gia (Royal
College of Surgeons), Sir Harry Platt, báo cáo đã khẳng định tầm quan trọng của
sự hiện diện của cha mẹ và hết lòng đưa ra các khuyến nghị về việc thăm viếng
các bệnh nhi trên 5 tuổi và bệnh nhi dưới 5 tuổi, với “việc thăm khám không hạn
chế cho trẻ em và […] cung cấp chỗ ở cho cha mẹ ở lại với con nhỏ trong bệnh viện.”
Tác động của Báo cáo Platt mạnh mẽ đến nỗi vào năm 1962, Robertson kết luận rằng,
sau khi xuất bản, “không bệnh viện nào còn có thể phủ nhận trách nhiệm tàn ác này
nếu tiếp tục hạn chế sự tiếp xúc giữa bệnh nhi và người mẹ của trẻ”. Kết quả là
vào năm 1964, 80% bệnh viện ở Anh cho phép thăm khám hàng ngày so với 23% vào
năm 1952. Những con số này có vẻ khiêm tốn theo quan điểm ngày nay, nhưng vào
giữa thế kỷ 20, chúng đã đánh dấu một cột mốc rất quan trọng. Tương tự, một ấn
phẩm năm 1974 có chứa các khuyến nghị dành cho điều dưỡng, có tựa đề là Nurse! I want my Mummy, nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc “hiểu nhu cầu tình cảm của trẻ nhỏ” và kêu gọi “mở rộng sự
tham gia của phụ huynh trong các khoa phòng bệnh viện dành cho trẻ em”. Tại Hoa
Kỳ, một cuộc khảo sát bệnh viện năm 1978 chỉ ra rằng 66% bệnh viện Hoa Kỳ không
còn hạn chế sự thăm khám của cha mẹ.
Sự kiện lớn thứ ba, trùng hợp theo thứ tự thời
gian với Báo cáo của Bowlby gửi cho WHO và khuyến khích việc đưa Báo cáo Platt
vào hoạt động, là việc James Robertson hoàn thành cuốn phim A Two Year Old Goes to Hospital.
Xem
tiếp Phần 2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét