Nguồn:
Cycle of violence - Truy xuất
từ:
https://www.shelterforhelpinemergency.org/get-help/cycle-violence?fbclid=IwAR27ROGiKwwVH7YcWn1yCD_Xp80Th5gotp_x69pAaO8kxlrs_wyMvYZPA-s
CV Tâm lý ĐẶNG THỊ THANH TÂM Dịch và tổng hợp
Nhiều
người trong chúng ta thường tự hỏi: Tại sao bà A chị B sống trong cảnh bạo hành
như vậy mà người ta vẫn chịu đựng? Tại sao bị đánh đập tàn bạo rồi khi được xin
tha thứ thì lại mềm lòng? Tại sao lại không ly hôn đi?
Trên thực
tế, bạo lực phức tạp hơn chúng ta nghĩ rất nhiều và không phải đơn giản để có
thể giải quyết được nó. Năm 1979, tác giả Lenore Walker đã xuất bản cuốn sách
“The Battered Woman”, trong đó giới thiệu về Lý thuyết Bạo lực theo Chu kỳ (Cycle
Theory of Violence).
Đây là
lý thuyết về sự thuyên giảm căng thẳng (tension reduction theory), nó góp phần
giải thích sự phức tạp và sự tồn tại đồng thời (co-esistence) của hành vi lạm dụng
và hành vi yêu thương. Lý thuyết này đề cập đến ba giai đoạn riêng biệt liên
quan đến sự tuần hoàn của chu kỳ bạo lực:
(a)
Hình thành căng thẳng đi kèm với sự gia tăng nguy hiểm,
(b) Sự
cố bạo hành nghiêm trọng và
(c) Kỳ
trăng mật (honeymoon).
Nó giúp
những người chưa từng bị bạo lực gia đình hiểu rằng việc phá vỡ chu kỳ bạo lực
phức tạp hơn nhiều so với việc chỉ “thoát ra” hoặc bỏ đi. Chu kỳ bạo lực thường
bắt đầu sau giai đoạn tán tỉnh thường được mô tả là có rất nhiều sự quan tâm từ
kẻ bạo hành trong cuộc sống của người phụ nữ và thường chứa đầy hành vi yêu
thương. Một số phụ nữ mô tả rằng, sau một thời gian, hành vi của kẻ bạo hành sẽ
chuyển thành rình rập và theo dõi. Nhưng vào thời điểm điều này xảy ra, người
phụ nữ đã cam kết với người đàn ông và không còn sức lực cũng như mong muốn thường
trực để cắt đứt mối quan hệ. Hơn nữa, nhiều phụ nữ cho biết họ tự nhủ rằng khi
đã kết hôn, đàn ông sẽ cảm thấy an tâm hơn trong tình yêu của mình và không có
nhu cầu tiếp tục thực hiện hành vi theo dõi. Thật không may, điều này hiếm khi
xảy ra mà thay vào đó, hai giai đoạn đầu tiên của chu kỳ bạo lực bắt đầu với
giai đoạn thứ ba của hành vi yêu thương trong mối quan hệ tương tự như những
giai đoạn tốt đẹp của giai đoạn tán tỉnh.
Giai đoạn 1: Hình thành căng thẳng đi kèm với
sự gia tăng nguy hiểm
Trong
giai đoạn đầu, có một sự từ từ leo thang mức độ căng thẳng biểu hiện qua một số
hành vi đơn lẻ như chửi rủa, đối xử thô lỗ có chủ ý hoặc bạo lực thể chất. Kẻ bạo
hành thể hiện sự bất mãn và thù địch nhưng không hẳn thể hiện sự bùng nổ đến mức
cực đoan. Người phụ nữ cố gắng xoa dịu kẻ đã đánh đập mình, làm những gì cô ấy
nghĩ có thể làm hài lòng anh ta, khiến anh ta bình tĩnh lại, hoặc ít nhất, điều
gì sẽ không kích động anh ta. Cô cố gắng không đáp lại những hành động thù địch
của anh ta và sử dụng những phương thức nói chung giúp làm giảm sự tức giận.
Thường thì cô ấy thành công trong một thời gian ngắn, điều này củng cố niềm tin
phi thực tế của cô ấy rằng cô ấy có thể kiểm soát người đàn ông kia. Nó cũng trở
thành một phần của mô hình đáp ứng/kết quả không thể đoán trước được, tạo ra một
kiểu “bất lực do được tập nhiễm” (learned helplessness).
Căng thẳng
tiếp tục leo thang, người bị bạo hành trở nên lo sợ hơn về mối nguy hiểm sắp diễn
ra và cuối cùng họ không thể tiếp tục kiểm soát mô hình phản ứng khi tức giận của
kẻ bạo hành. “Quá mệt mỏi vì căng thẳng thường xuyên, nạn nhân thường rút lui
khỏi kẻ bạo hành, sợ rằng mình sẽ vô tình kích hoạt một cơn cuồng nộ. Kẻ bạo
hành bắt đầu có xu hướng áp bức hơn về phía nạn nhân khi anh ta quan sát thấy nạn
nhân có động thái rút lui… Căng thẳng giữa hai người trở nên không thể chịu đựng
được”. (Walker, 1979, trang 59).
Giai đoạn 2: Sự cố bạo hành nghiêm trọng
Giai đoạn
thứ hai, sự cố bạo hành nghiêm trọng, đây là điều không thể tránh khỏi nếu
không có sự can thiệp. Đôi khi, nạn nhân đoán được thời gian và địa điểm các
cơn cuồng nộ có thể xảy ra để chuẩn bị các biện pháp phòng ngừa tốt hơn nhằm giảm
thiểu chấn thương và đau đớn cho mình. Theo thời gian, nạn nhân có thể học cách
dự đoán thời điểm trong chu kỳ mà có một khoảng thời gian chắc chắn - sau khi đạt
đến thời điểm đó, nạn nhân sẽ không có lối thoát trừ khi kẻ bạo hành cho phép.
“Giai đoạn 2 được đặc trưng bởi sự bùng nổ không thể kiểm soát của những căng
thẳng đã tích tụ trong giai đoạn 1” (Walker, 1979, tr.59). Kẻ bạo hành thường
tung ra một cuộc tấn công bằng lời nói và thể chất có thể khiến nạn nhân bị chấn
động và bị tổn thương nặng. Nạn nhân cố gắng hết sức để tự bảo vệ mình, thường
che các bộ phận trên khuôn mặt và cơ thể để đỡ một số cú đánh. Trên thực tế,
các chấn thương thường xảy ra ở giai đoạn thứ 2 này. Đó cũng là lúc cảnh sát phải
vào cuộc, nếu họ được gọi đến. Giai đoạn sự cố bạo hành nghiêm trọng được kết
thúc khi người bạo hành dừng lại, kéo theo đó là sự giảm căng thẳng về mặt sinh
lý. Điều này tự nó có tính củng cố (reinforcing) một cách tự nhiên: Bạo lực thường
thành công bởi vì nó có thể diễn ra.
Giai đoạn 3: Giai đoạn trăng mật
Trong
giai đoạn 3, kẻ bạo hành có thể xin lỗi rối rít, cố gắng giúp đỡ nạn nhân, thể
hiện sự tử tế và hối hận, làm cho nạn nhân bị đắm chìm trong những món quà hoặc
lời hứa. Vào thời điểm này, bản thân kẻ bạo hành có thể tin rằng anh ta sẽ
không bao giờ cho phép mình sử dụng bạo lực nữa. Nạn nhân muốn tin vào kẻ bạo
hành và ít nhất trong thời gian đầu của mối quan hệ, có thể nuôi dưỡng hy vọng
của mình vào khả năng thay đổi của hắn ta. Giai đoạn thứ ba này cung cấp sự củng
cố tích cực cho nạn nhân để duy trì mối quan hệ. Nhiều hành vi mà kẻ bạo hành
đã làm khi hai người yêu nhau trong thời gian tán tỉnh (courtship period) lại
tái diễn ở đây. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng giai đoạn 3 cũng có thể
được đặc trưng bởi sự vắng mặt của căng thẳng hoặc bạo lực, không có hành vi
yêu thương quan sát được nhưng vẫn mang tính củng cố cho nạn nhân. Đôi khi nhận
thức về sự căng thẳng và nguy hiểm vẫn được duy trì ở mức rất cao và không trở
lại mức cơ bản hoặc mức độ yêu thương. Đây là dấu hiệu cho thấy nguy cơ xảy ra
sự cố chết người là rất cao.
Trong một
khoảng thời gian có thể có những thay đổi đối với chu kỳ. Giai đoạn trăng mật
có thể trở nên ngắn hơn, căng thẳng và bạo lực có thể tăng lên. Một số nạn nhân
cho biết họ không bao giờ cảm thấy sự hối lỗi hoặc yêu thương của kẻ bạo hành,
mà chỉ đơn giản là thấy sự giảm bớt căng thẳng trước khi bắt đầu một chu kỳ mới.
Khi chu
kỳ bắt đầu, nạn nhân bắt đầu ra vào mối quan hệ. Thường mất nhiều nỗ lực khi
đưa ra quyết định cuối cùng để tìm đến những điều tốt đẹp. Cảm giác tội lỗi, bất
an và quan tâm đến lợi ích của các con đóng một vai trò quan trọng trong quá
trình ra quyết định của nạn nhân.
hay quá nên lan tỏa điều có ích này
Trả lờiXóaThks for all..
Trả lờiXóa