Thứ Tư, 29 tháng 12, 2021

BÀN VỀ CÁCH LÀM VIỆC VỚI TRẺ EM TRONG LIỆU PHÁP GIA ĐÌNH - Phần 2

Tựa đầy đủ: "Hiện diện tại đó, trải nghiệm và tạo không gian cho một cuộc đối thoại: Bàn về cách làm việc với trẻ em trong liệu pháp gia đình"

Being there, experiencing and creating space for dialogue: about working with children in family therapy

Tác giả: PETER ROBER Nhà tâm lý lâm sàng, nhà trị liệu gia đình, đào tạo viên liệu pháp gia đình tại Bệnh viện Đại học Leuven (Louvain), Vương quốc Bỉ.

Nguồn: Journal of Family Therapy (2008) 30: 465-477

Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN



Xem lại Phần 1

Phần 2

Ca lâm sàng cỦa Elly và ngưỜi mẸ

Ca lâm sàng này dựa trên sự phân tích các phiên trị liệu đã được ghi hình khi tác giả làm việc với những đứa trẻ Elly, Art (tên thật đã được thay đổi) và người mẹ của chúng. Một số chi tiết câu chuyện đã được thay đổi để bảo mật cho gia đình này. Phân tích genogram cho thấy bố mẹ Elly đã ly hôn và hai trẻ sống với mẹ.

ELLY VÀ MẸ: SỰ TRẢI NGHIỆM CỦA NHÀ TRỊ LIỆU CÓ VAI TRÒ NHƯ CHIẾC CẦU NỐI

Một người mẹ đã tiếp xúc với tôi (tác giả) vì bà bận tâm nhiều đến những hành vi có vấn đề của đứa con gái 8 tuổi của bà, Elly. Trong phiên trị liệu đầu tiên, với sự hiện diện của người mẹ, Elly và Art, đứa em trai 2 tuổi, chúng tôi đã trao đổi với nhau rất nhiều chuyện, trong lúc những đứa trẻ tự do khám phá căn phòng làm việc và chơi với những đồ chơi để trên bàn. Người mẹ kể cho tôi nghe những mối bận tâm của bà về những hành vi của con gái bà ở nhà. Mẹ nói Elly không phải đứa bé ngoan, bé không nghe lời khi mẹ yêu cầu bé giúp mẹ ở nhà, bé còn hay bắt nạt em trai và còn ăn nói thô tục nữa. Hai tháng trước đó, người mẹ đã có lần phải nhập viện để điều trị chứng trầm cảm. Vào cuối phiên đầu tiên ấy, tôi đã yêu cầu gia đình ấy rằng mỗi người sẽ chọn mang một thứ gì đó đến vào phiên thứ hai để giúp tôi có thể hiểu thêm hơn về gia đình họ (thông tin chi tiết hơn về việc làm này xin xem thêm Rober, 1998).

Vào phiên trị liệu thứ hai, khi gia đình bước vào phòng trị liệu, tôi để ý thấy mỗi đứa trẻ mang theo mình một con gấu bông, còn người mẹ thì không mang theo gì cả.

Tôi hỏi ai muốn dùng món đồ mà mình mang đế để giới thiệu về bản thân mình? Người mẹ ngay lập tức quay sang Elly và bắt em nói trước. Elly không chịu nhưng bà mẹ cứ khăng khăng bắt ép nên em cũng đã bắt đầu nói chuyện với con gấu bông của mình. Tương tác giữa Elly và mẹ, dù diễn ra rất ngắn, cũng đã đập ngay vào mắt tôi. Thông thường thì người mẹ không ép con mình nói chuyện theo cách như thế. Ngược lại, hầu hết cha mẹ thường chấp nhận phần nào sự ngần ngại của con mình, bởi vì nói cho cùng thì trị liệu là một lĩnh vực rất xa lạ đối với con trẻ. Thông thường, nếu như trẻ lưỡng lự không muốn nói thì mẹ sẽ là người xung phong nói trước, bằng cách đó mẹ sẽ có thể gánh lấy trước những rủi ro, cho phép đứa con có thời gian và không gian để quan sát những gì xảy ra trong phiên trị liệu.

Tuy nhiên, người mẹ này đã thúc ép con gái mình nói trước. Tôi cảm thấy hơi bực bội với người mẹ, nhưng tôi cũng đã tập trung được vào Elly khi em nói rằng em thích chơi với con gấu bông và rằng con gấu bông rất quan trọng đối với em. Trong khi Elly nói, tôi nhận thấy người mẹ chẳng hề để tâm đến những gì con gái nói. Người mẹ mãi lo nói chuyện với Art, em trai của Elly, lúc này cứ đi đi lại lại trong phòng, bà cũng chẳng buồn tìm đến chiếc ghế để ngồi nữa. Bà mẹ chẳng có lần nào quay lại nhìn Elly trong khi cô bé đang nói về con gấu bông của mình. Sự bực bội của tôi đối với người mẹ gia tăng. Cùng lúc đó, tôi chợt cảm thương hơn với Elly và tự nhiên cảm thấy mình phải cố gắng để bù đắp lại cho cô bé đang thiếu sự quan tâm của mẹ bằng cách biểu lộ một sự chú tâm đặc biệt đối với những gì mà Elly đang nói. Tôi đã thực sự lắng nghe Elly một cách toàn tâm khi em kể cho tôi nghe rằng em đã ôm ấp con gấu của em như thế nào, và tôi cũng hỏi Elly đủ mọi thứ chuyện linh tinh về con gấu bông để cho em thấy rằng tôi vẫn đang lắng nghe. Elly nói con gấu bông rất quan trọng đối với em và em thường đặt gấu lên giường bên cạnh em khi em đi ngủ.

Elly nói thêm “Trừ những lúc em cháu không tìm thấy con gấu bông của nó”.

Tôi hỏi “Cháu nói vậy nghĩa là sao?”

“À, em cháu mà không có gấu bông thì nó sẽ không chịu đi ngủ. Vì vậy khi em cháu không tìm thấy gấu bông, cháu phải đưa nó con gấu của cháu thì nó mới chịu ngủ”, Elly giải thích.

Điều này đã làm tôi suy nghiệm trong khi thực hiện cuộc đối thoại bên trong (inner conversation) của mình rằng cô bé này dường như rất lưu tâm và hay giúp đỡ em trai mình. Tôi lưu nhớ trong trí mình về điều đó bởi vì điều đó nằm ra bên ngoài những tính cách của cô bé theo như cách mô tả ban đầu của người mẹ vào phiên trị liệu đầu tiên khi bà cho rằng cô bé là một đứa trẻ có vấn đề. Tôi tự hỏi liệu rằng người mẹ có thực sự hiểu biết về đứa con của mình hay không? Tôi cũng tiếp tục suy nghiệm rằng liệu sau cùng người mẹ này có thể hiểu biết con gái của mình không nếu như bà chẳng hề để tâm đến những điều mà Elly đang nói, mà những điều ấy là rất quan trọng đối với cô bé?

Rồi sau đó có một điều kỳ lạ đã xảy ra. Art, đứa em trai, đã đặt con gấu bông của mình lên một chiếc ghế trống. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi Art đi đến và ngồi lên một chiếc ghế trống khác đối diện với con gấu bông của mình. Tôi im lặng quan sát cậu bé vì đó là lần đầu tiên trong buổi cậu chịu ngồi thoải mái trên ghế. Thế rồi Elly rời khỏi ghế, đứng lên, cầm con gấu bông của em (lớn hơn con gấu của Art) đặt lên cùng chiếc ghế với con gấu bông của Art. Elly kéo cánh tay con gấu lớn quàng qua vai của con gấu nhỏ. Tôi bị ấn tượng bởi vì tư thế đó giống như một cái ôm đầy yêu thương và một lần nữa tôi lại suy nghiệm thêm về Elly – em thật biết lưu tâm và giúp đỡ em mình biết bao. Khi Elly trở về ghế ngồi thì Art lại đứng lên, đi về phía chiếc ghế có đặt hai con gấu bông. Không nói một lời nào, Art cầm con gấu bông của Elly lên, thả rơi xuống sàn nhà, rồi đặt con gấu của mình ngồi lại lên ghế. Bằng giọng vui đùa, Elly kêu lên phản đối “Hey!”. Cô bé vừa mỉm cười vừa đứng lên, cầm lấy con gấu của Art rồi, đến lượt mình, cô bé cũng thả rơi con gấu của cậu em xuống sàn nhà và đặt con gấu của mình trở lại lên ghế. Ngay lúc ấy, người mẹ ập đến và nói “Elly, không được bắt nạt em”.

Lúc ấy tôi vẫn đang ngồi quan sát những tương tác giữa hai đứa trẻ và điều đập vào trí tôi một cách đặc biệt đó là lời nhận xét của người mẹ “đừng bắt nạt em”. Lời nói của người mẹ khiến tôi thấy khó chịu và bực bội. Tôi tái cấu trúc lại cảnh tượng này trong cuộc đối thoại bên trong của tôi như sau: Trước tiên, Elly đã làm một việc rất nhiệt tình và lưu tâm đến em trai bằng cách đặt con gấu bông của mình bên cạnh để dỗ dành con gấu bông của Art. Việc làm này dường như chẳng được cả mẹ lẫn em trai cô chú ý đến. Rồi đến khi Elly và em trai đang tranh giành nhau trong lúc chơi, thì người mẹ đang buông lời khiển trách cô chị. Dường như thể rằng người mẹ chỉ cho lời nhận định về Elly khi cô bé làm một việc gì đó “không đúng” – ít nhất là theo cách nhìn của người mẹ. Tôi đã cảm thấy rất không thoải mái với cách thức mà phiên trị liệu đang diễn ra. Trong cuộc đối thoại bên trong, tôi thấy bản thân mình đang phản đối và chỉ trích người mẹ, đồng thời tôi tự nhủ đây không phải là điều mà một người mẹ tốt làm cho con. “Vì sao bà mẹ đã không thừa nhận những việc có tính chất xây dựng mà Elly đang làm trong gia đình bà? Tại sao bà chỉ chú ý đến những việc làm “sai” của con gái?” Tôi thật sự bực bội, và tôi muốn bảo vệ Elly trước bà mẹ có thái độ đối xử bất công ấy.

Tôi không biết tại sao, nhưng vì lý do nào đó ngay lúc ấy, tôi đã trở nên nhận thức về điều mà tôi đang trải nghiệm trong phiên trị liệu: Tôi nhận ra rằng mình không thực sự đã thấu cảm với người mẹ, trong khi cùng lúc đó tôi lại dành nhiều sự ngưỡng mộ cho thái độ tử tế của Elly. Tôi thực sự thú nhận rằng mình đã động lòng trắc ẩn trước cô con gái. Tôi nhận ra rằng nếu như tôi không thận trọng, tôi có thể đã bắt đầu hỏi, trả lời hoặc bình phẩm với những điều xác định nên cảnh tượng đơn giản mà tôi đang thấy trước mắt về gia đình này: Một bên là một người mẹ không tốt và bên kia là một đứa trẻ ngây thơ đang cần sự lưu tâm của mẹ. Sau một chút suy ngẫm (Chú thích: Tác giả dùng từ “reflection” trong “đối thoại bên trong với nghĩa “suy ngẫm”, “tự phản ảnh” – N.D.), tôi nhận thấy rằng hình ảnh cô bé Elly đang cần đến sự quan tâm của mẹ đã thôi thúc tôi, mời gọi tôi đảm nhận lấy vai trò của một người phụ mẫu tốt trong cái kịch cảnh quan hệ (relational scenario) đang diễn ra trong phiên trị liệu. Vâng thực vậy, tôi đã đảm nhận vai trò của một phụ mẫu tốt khi tôi cố gắng bù đắp lại sự quan tâm mà tôi nghĩ là Elly bị thiếu thốn. Tôi cũng thấy thoải mái hơn trong vai trò phụ mẫu tốt ấy, cảm thấy mình hợp lý khi can thiệp vào gia đình ấy, khi đang cố gắng lấp trám vào những chỗ bị khiếm khuyết, mà không nhận ra mình đã tranh lấy vị trí mà vốn là của mẹ Elly, người mà giờ đây đã ở vào vị trí một phụ mẫu tồi. Thật vậy, tôi cũng nhận ra rằng tôi đã đứng giữa Elly và mẹ của cô bé, tách họ xa nhau ra và có khả năng kéo dài bất tận những gì đã không ổn trong quan hệ giữa họ với nhau.

Tôi cũng đã ngạc nhiên với những phản ảnh có tính tiêu cực của chính mình, và một cách trung thực, tôi đã tự thất vọng với chính mình – Tôi cũng thường tự hào mình là một nhà trị liệu có tính xây dựng khi chú tâm vào các đối thoại trao đổi với các thân chủ của mình. Rồi tôi quyết định phải thay đổi “giai điệu” của mình, bắt đầu đặt ra những câu hỏi có tính xây dựng hơn để dần dần tìm đến những khả năng và nguồn lực từ người mẹ. Tôi muốn sửa chữa lại cái hình ảnh về người mẹ có tính bất công mà trước đó tôi đã hiểu một cách đơn giản đến mức thái quá và tôi cũng muốn tìm cách chạm dần đến hình ảnh một người mẹ có khả năng yêu thương con bên trong bà ấy.

Vì thế tôi bắt đầu mời gọi người mẹ kể về những khoảnh khắc khi mối quan hệ diễn ra tốt đẹp giữa bà và con gái bà và những lúc mà bà đánh giá cao về con gái. Đầu tiên, người mẹ vẫn biểu lộ vẻ bực bội với Elly, và vẫn kể về những câu chuyện liên quan đến các vấn đề về hành vi của Elly. Nhưng rồi, dần dần, những câu chuyện khác có tính tích cực hơn bắt đầu được đề cập đến: những lúc Elly giúp đỡ mẹ, những lúc Elly chăm sóc em trai và những lúc Elly và mẹ có thể vui thú bên nhau. Những câu chuyện này đã xác định rằng người mẹ, dù vẫn luôn bận tâm và bực bội về Elly, vẫn thực sự có quan tâm đến cô bé và rằng hai mẹ con thực sự vẫn yêu thương nhau rất nhiều.

Điều thú vị là, vào phiên trị liệu thứ tư, khi tôi tiếp chuyện riêng với người mẹ, tôi đã ấn tượng với những điều mà người mẹ kể cho tôi nghe về lịch sử đời bà mà những điều ấy dường như đã có sự vang vọng (resonate) với những điều tôi trải nghiệm được trong phiên trị liệu thứ hai. Chẳng hạn như việc có rất nhiều sự tương tự giữa tuổi thơ của bà mẹ và tuổi thơ của Elly. Người mẹ, giống như Elly, khi lên 8 tuổi, bà cũng đã phải chăm sóc cho một người mẹ bị trầm cảm. Bà mẹ nói: “Tuy vậy, mẹ tôi đã chẳng bao giờ biết rằng tôi yêu bà biết bao. Bà cũng chẳng bao giờ thừa nhận rằng tôi đã làm biết bao nhiêu việc cho bà”.

Chúng tôi nói chuyện về nỗi bận tâm của mẹ Elly về chính người mẹ của bà, về những cách thức mà mẹ Elly, khi chỉ là một đứa trẻ, phải chăm sóc cho người mẹ của bà. Rồi bà nói: “Giờ đây tôi hiểu rằng Elly cũng đang trải qua những chuyện như tôi đã từng trải qua lúc còn nhỏ”.

Đến cuối phiên trị liệu, tôi ngạc nhiên khi người mẹ bắt đầu khóc và nói rằng mẹ của bà đã tự sát khi bà lên 8 tuổi. Bà kể cho tôi nghe câu chuyện ấy. Lúc đó, chỉ có bà và mẹ mình sống chung với nhau. Một hôm, khi bà từ trường trở về nhà, bà đã phát hiện mẹ mình trong phòng ngủ và đã dùng súng tự sát.

Bà nói thêm: “Trong suốt những ngày tháng chăm sóc cho mẹ, tôi đã cố gắng giữ cho bà có thể sống, nhưng rõ ràng là tôi đã thất bại”.

Sau khi kể cho tôi nghe xong câu chuyện này, người mẹ nói bà không muốn Elly có một tuổi thơ đau buồn giống như bà đã từng có. Giờ đây cái hình ảnh về một người mẹ vô tâm và bất công chỉ còn là một ký ức mờ xa, và thay vì nói về những vấn đề về hành vi của Elly, chúng tôi chuyển sang nói về cách thức làm thế nào để người mẹ có thể giúp đỡ cho Elly có được một tuổi thơ hạnh phúc hơn.

BÀN LUẬN

Ca lâm sàng về Elly và mẹ, như đã được kể ra trong bài viết này, đặt trọng tâm vào những trải nghiệm của nhà trị liệu, kịch cảnh có tính tiêu cực mà nhà trị liệu có nguy cơ bị mắc mứu vào và những cơ hội mà nhà trị liệu nắm bắt được để có thể mời gọi thân chủ kể ra những câu chuyện mới hơn và có tính xây dựng hơn trong phiên trị liệu.

1, Trải nghiệm của nhà trị liệu: Nhà trị liệu cảm thấy ngày càng bực bội với người mẹ, động lòng trắc ẩn đối với Elly, cố gắng mang đến cho cô bé những gì mà người mẹ đã không cho cô.

2, Sự nguy hiểm của việc bị mắc mứu vào một kịch cảnh có tính tiêu cực: Những trải nghiệm của nhà trị liệu sẽ thúc đẩy nhà trị liệu có khuynh hướng bảo vệ cho Elly và phê phán đối với người mẹ. Nhà trị liệu bị nghiêng theo chiều hướng đảm nhận vai trò của một phụ mẫu tốt, bắt đầu làm thế mà không hề nhận ra cách làm ấy có thể gây nên những hệ quả tiêu cực như thế nào. Nếu nhà trị liệu tiếp tục góp phần theo cách như thế, theo kịch bản bảo vệ, quy lỗi và phản bác, thì có thể sẽ tiếp tục kéo dài những mô hình ứng xử tiêu cực mà gia đình này có lẽ đã mắc mứu vào.

3, Những cơ hội: Nhà trị liệu nhận ra mối nguy nêu trên và bắt đầu thực hiện việc sửa chữa. Ông nắm bắt lấy cơ hội và đặt ra những câu hỏi về những điều tích cực khi người mẹ chăm con và về những khoảnh khắc tốt đẹp mà Elly có được cùng với người mẹ. Việc làm này mở ra khoảng không gian cho những câu chuyện mới liên quan đến tình yêu thương và sự chăm sóc bên trong gia đình này, cùng những điều tốt đẹp trong quan hệ giữa mẹ và con gái. Hơn nữa, những câu chuyện này lại gợi lên câu chuyện về sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa quan hệ của người mẹ Elly với người mẹ của bà trong gia đình gốc với mối quan hệ của Elly với mẹ trong hiện tại.

Cách phân tích trải nghiệm và vị thế của nhà trị liệu trong phiên trị liệu gia đình như trên dựa theo một mô hình gọi là Mô hình EDO: Mô hình Trải nghiệm – Mối nguy – Cơ hội (Experience-Danger-Opportunity) (Rober). Mô hình EDO có ý nghĩa là đã “bắc cầu” nối qua khoảng trống ở giữa việc thực hành liệu pháp gia đình (trị liệu, giám sát, huấn luyện) với việc nghiên cứu về thực hành cuộc đối thoại bên trong của nhà trị liệu mà tôi đã tiến hành (Rober, 1999, 2002, 2004, 2005; Rober và cs., 2008). Mô hình này đề xuất rằng nhà trị liệu cần phải nhạy cảm đối với những trải nghiệm của chính mình trong phiên trị liệu, phải cẩn thận để ý kỹ những điều gì có tính chất âm thầm mời gọi mình kết nối với những thành viên gia đình theo một kịch cảnh quan hệ thiếu tính xây dựng, và sau cùng có thể khám phá những cơ hội có thể thúc đẩy phiên trị liệu hướng đến những cách thức mới có tính xây dựng hơn. Mặc dù mô hình EDO là một mô hình nói chung tập trung vào trải nghiệm của nhà trị liệu khi thực hành liệu pháp gia đình, mô hình này cũng vô cùng hữu dụng khi làm việc với những trẻ em trong các gia đình. Nhà trị liệu được mời gọi tham gia vào kịch bản quan hệ của gia đình với một vai trò mà thường thì vai trò đó sẽ phản ảnh nhiều điều – cho đến lúc đó – rất khó nói ra trong gia đình ấy (Nguyên văn: “The role the therapist is invited to play in the family’s relational scenario often reflects a lot of what – as yet – is difficult to talk about in the family”). Như đã minh họa trong trường hợp Elly và mẹ, những trải nghiệm không thoải mái của nhà trị liệu khi ở trong vai trò này có thể mang lại cho nhà trị liệu một trải nghiệm cận cảnh (firsthand experience) về một số điều mà các thành viên gia đình đang trải qua. Kinh nghiệm lâm sàng đã dạy cho tôi rằng những trải nghiệm cảm xúc mạnh mẽ mà nhà trị liệu có được trong phiên trị liệu – những trải nghiệm khiến thúc đẩy nhà trị liệu hướng đến việc đảm nhận một nhiệm vụ tích cực trong kịch cảnh quan hệ của gia đình ấy, thường có thể giúp kết nối nhà trị liệu với những tầng sâu chưa được nói đến của những điều mà đứa trẻ có vấn đề đang trải qua trong gia đình ấy. Vì thế nếu nhà trị liệu dám nhận lấy nguy cơ của việc dung nạp những trải nghiệm của chính mình trong phiên trị liệu và thành công trong việc phản ảnh chúng (thay vì bị chúng “kích hoạt”), khi đó những trải nghiệm ấy có thể trở thành một “chiếc cầu có tính thấu cảm” (empathic bridge) hướng đến sự thông hiểu tốt hơn về những gì đang diễn ra bên trong gia đình. Ngoài ra, những trải nghiệm ấy có thể truyền cảm hứng để nhà trị liệu có thể đặt ra những câu hỏi giúp mở ra không gian cho những cuộc đối thoại trong sáng hơn và có khả năng gây ngạc nhiên giữa các thành viên gia đình với nhà trị liệu, cũng như giữa các thành viên gia đình với nhau, thậm chí giữa các thành viên gia đình với bối cảnh xã hội xung quanh họ.

KẾT LUẬN

Trong khi hầu hết các tác giả đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huy động sự tham gia tích cực của trẻ em vào các phiên trị liệu gia đình, có khá nhiều nhà trị liệu gia đình đã đặt trẻ em bên ngoài quá trình trị liệu bởi họ cảm thấy không thoải mái khi làm việc với trẻ em. Việc huấn luyện cho các nhà trị liệu trở nên thoải mái hơn khi làm việc với trẻ em là một ý tưởng hay, nhưng có lẽ vẫn chưa đầy đủ.

Trong bài viết này tôi đã nêu lên tính phức tạp trong chủ đề về tính thoải mái của nhà trị liệu trong phiên trị liệu. Tôi cũng đã lưu ý những ai đang thực hành trị liệu rằng cách thức mà chúng ta cảm thấy thoải mái hay không thoải mái trong phiên trị liệu có thể giúp chúng ta hiểu được một điều gì đó từ những sự việc đang diễn ra bên trong gia đình mà chúng ta đang làm việc. Trong phần bàn luận về ca của Elly và mẹ, tôi cũng đã giới thiệu một cách tóm tắt mô hình EDO như một công cụ thực hành đơn giản để những nhà trị liệu có thể phát huy khả năng sử dụng những trải nghiệm của chính mình trong khi họ làm việc với những trẻ em trong các gia đình.

LỜI CẢM ƠN

Bài viết này được dựa trên một bài giảng được trình bày tại Hội nghị EFTA-AFT tại Glasgow, Anh Quốc, tháng 10-2007. Chân thành cảm ơn Jim Wilson đã giúp đỡ trong việc thực hiện bài viết này. - PETER ROBER


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...