Thứ Tư, 22 tháng 12, 2021

CÁCH CHỮA BỆNH BẰNG ĐỨC TIN HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO

How Faith Healing Works
Bởi: ED GRABIANOWSKI
Nguồn: HowStuffWorks

Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN



Giả sử bạn bị đau yếu, có thể là bất cứ loại bệnh gì: một cơn đau tim, gãy chân, nhiễm trùng nghiêm trọng. Rất có thể, bạn muốn bác sĩ chỉ định giải pháp y tế cho vấn đề của mình, chẳng hạn như đơn thuốc kháng sinh hoặc phẫu thuật cứu sống bạn. Nhưng thay vì tìm đến y học, một số người có thể sử dụng các đặc tính chữa bệnh của tôn giáo thông qua một thực hành được gọi là chữa bệnh bằng đức tin (faith healing).

Một người bị bệnh tim có thể có người thân hoặc bạn bè cầu nguyện cho cô ấy bình phục, hoặc các thành viên trong gia đình yêu cầu mọi người trên mạng xã hội cầu nguyện cho cô ấy. Hoặc thay vì dùng đến lời cầu nguyện chung chung để tác động đến bệnh tim của mình, cô ấy có thể đến một thầy chữa bệnh bằng đức tin (faith healer), một nhà lãnh đạo tôn giáo, người tuyên bố có quyền hạn do một vị thần ban cho phép ông ấy có thể chữa lành những người bệnh một cách thần kỳ. Cũng có thể bệnh nhân đã đến với vị thầy chữa ấy vì các phương thức y khoa không hiệu quả hoặc cô ấy không đủ khả năng chi trả. Khi vị thầy chữa đặt tay lên đầu cô ấy, cô ấy ngất đi và cảm thấy như mình đang được nhấc bổng lên và cơn bệnh đang dần thoát ra khỏi cơ thể cô ấy. Ngay cả khi bệnh của cô ấy là giai đoạn cuối, cô ấy không phải lo lắng – vị thầy chữa bằng đức tin tuyên bố đã đưa người ấy từ cõi chết trở về.

Đức tin chữa bệnh có nguồn gốc văn hóa sâu sắc trên khắp thế giới. Ý tưởng cơ bản đằng sau nó là sức mạnh siêu nhiên của một đấng thiêng liêng có thể chữa khỏi các vấn đề sức khỏe ngang bằng hoặc có thể còn tốt hơn y khoa nữa. Niềm tin chữa bệnh có từ hàng nghìn năm qua, có nhiều dạng và thậm chí đã được các nhà khoa học nghiên cứu.

Những thầy chữa bằng đức tin làm gì?

Một loại chữa lành bằng đức tin rất đơn giản được gọi là “cầu nguyện thay” (intercessory prayer). Ý tưởng chính đó là những lời cầu nguyện của bệnh nhân, của bạn bè và gia đình của bệnh nhân hoặc của những người hoàn toàn xa lạ, có thể ảnh hưởng tích cực đến kết quả của bệnh tật, thương tích hoặc bệnh tật. Đôi khi những lời cầu nguyện xuất hiện để truyền cảm hứng cho một phép lạ hoàn toàn, giống như một bệnh nhân mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối đột ngột thuyên giảm. Đôi khi tác động gây ra có tính ảo diệu, chẳng hạn như bệnh nhân bị chấn thương cột sống có thể phục hồi khả năng đi lại hoặc một sự vận động thông thường diễn ra suôn sẻ.

Một loại chữa bằng đức tin khác, phức tạp hơn một chút, khi một nhà thuyết giáo có uy tín tuyên bố có sức mạnh thần thánh có thể chữa bệnh và chữa lành vết thương. Những thầy chữa này khẳng định rằng họ có nhiều quyền năng siêu nhiên. Một số người, như nhà truyền giảng Tin Lành Todd Bentley và nhà truyền giáo quá cố Kathryn Kuhlman, thực hiện bằng cách đặt tay lên những tín đồ của họ và hàng nghìn người đã tham dự các buổi lễ của họ. Họ có thể tính phí hoặc yêu cầu đóng góp để tham dự một sự kiện và có cơ hội được chữa lành. Những thầy chữa bằng đức tin khác tuyên bố có khả năng chữa bệnh từ khoảng cách xa hoặc không cần gặp trực tiếp những người đến để chữa bệnh. John Alexander Dowie, chẳng hạn, đã thiết lập các mục vụ chữa bệnh (healing ministries) ở San Francisco và Chicago vào thập niên 1890 và đầu thập niên 1900 (Nguồn: Harlan).

Những thầy chữa bằng đức tin có khả năng thực hiện từ những cách chữa trị khiêm tốn cho đến những đợt hồi phục dường như rất thần kỳ. Những nhân chứng ​​đã kể lại những kỳ công chữa bệnh dường như là không thể, chẳng hạn như khi một người đàn ông bị mất một cánh tay có thể đã mọc lại nó trước đám đông (Nguồn: Barrett). Nhiều vị thầy chữa bằng đức tin, bao gồm cả Benson Idahosa và Frank Sandford, đã tuyên bố rằng họ có thể "chữa" cả sự chết và khiến một người đã khuất sống lại. Một số thầy chữa, chẳng hạn như Dowie và Rua Kenana Hepetipa, thậm chí còn tự nhận mình là Giê-Su Christ hoặc một vị thánh nào đó.

Mặc dù những thầy chữa bằng đức tin có khác nhau về phương pháp chuyên biệt của họ, nhưng phần nhiều dịch vụ của họ xoay quanh việc xây dựng năng lượng trong đám đông, mà thầy chữa bệnh có thể được xem là Chúa Thánh Linh (Holy Spirit), năng lượng của đức tin hoặc một số thế lực siêu nhiên nào khác. Sự phấn khích này có thể được tạo ra bằng một bài thuyết giáo đầy năng lượng, các buổi biểu diễn âm nhạc, tụng niệm và nhảy múa. Vào thập niên 1920, một thầy chữa bằng đức tin tên Aimee Semple McPherson là một trong những nhà thuyết giáo đầu tiên tổ chức các buổi lễ tôn giáo đầy sáng tạo với tất cả sự kịch tính và phấn khích của một buổi trình diễn sân khấu. Trong số các đạo cụ biểu diễn của cô có những con tàu khổng lồ, con ngựa thành Troy và một chiếc mô tô (Nguồn: Grimley). Những thầy chữa đặt tay lên người bệnh, thường kết hợp với một cú đẩy hoặc thậm chí là một đánh khiến người bệnh có thể ngã quỵ, ngất xỉu hoặc chỉ đơn giản là ngã xuống. 

Có những lý do văn hóa phức tạp mà rất nhiều người tin rằng những thầy chữa bằng đức tin thực sự có thể chữa lành cho người bệnh, và họ tuỳ thuộc một phần vào loại tôn giáo mà người ta tin tưởng.

Tại sao người ta tin vào việc chữa lành bằng đức tin?

Nếu bạn xem một video về bài giảng của một thầy chữa bằng đức tin, bạn có thể thấy người ta tụng niệm, ca hát và nhảy múa, và bạn sẽ nghe thấy người thuyết giáo hét lên với vẻ đầy sức thuyết phục. Có thể có những cơn bộc phát cảm xúc sâu sắc, và khi vị thầy chữa đặt tay lên một người, người đó thường bị ngã xuống hoặc ngất xỉu.

Niềm tin vào việc chữa bệnh bằng đức tin có sức mạnh như vậy một phần bởi vì, trước khi có sự phát triển mạnh mẽ của y khoa trong thế kỷ 19 và 20, đức tin và y học đã sự trùng lắp với nhau nhiều hơn so với ngày nay. Ví dụ, người Hy Lạp cổ đại tôn kính Asclepius (Thần Y học) và đến thăm một nơi được gọi là Asclepeion có chức năng như một bệnh viện kết hợp, vừa là cơ sở chăm sóc sức khỏe tâm thần vừa là đền thờ tôn giáo. Hierophants – vị đại tư giáo, vừa là linh mục, đôi khi cũng vừa là thầy thuốc, và họ chăm sóc người bệnh bằng cả nghi lễ tôn giáo lẫn kiến ​​thức y học thô sơ thời đó.

Hình thức chữa lành bằng đức tin hiện đại bắt đầu vào thế kỷ 19 và bùng nổ phổ biến vào đầu thế kỷ 20, với sự quan tâm gia tăng đột biến sau mỗi vài thập kỷ kể từ đó. Loại hình chữa lành bằng đức tin này đã trở nên phổ biến phần lớn là do Cơ đốc giáo Đặc sủng (Charismatic Christianity). Từ "đặc sủng" (charisma) ở đây không dùng để chỉ sức lôi cuốn cá nhân của những vị thầy thuyết giáo. Trong một tín ngưỡng đặc sủng, các tín đồ trải nghiệm sức mạnh của vị thần mà họ đã chọn trực tiếp trong cuộc sống hàng ngày của họ - nói cách khác, họ tin rằng Chúa chọn tương tác với con người mỗi ngày, trong khi thường xuyên tạo ra các sự kiện kỳ ​​diệu.

Trào lưu Ngũ tuần (Pentecostalism – thuộc Tin Lành) là hình thức hiện đại sớm nhất của Cơ đốc giáo Đặc sủng. Các nhà thờ Ngũ Tuần mọc lên vào đầu thế kỷ 20, và những ý tưởng của họ về việc chữa lành bằng đức tin cũng như những trải nghiệm tôn giáo trực tiếp khác dần dần được đưa vào các giáo phái Cơ đốc chính thống hơn, giống như các nhà thờ Tin lành khác và thậm chí cả Giáo hội Công giáo. Cơ đốc giáo Đặc sủng lại trở nên phổ biến ở Hoa Kỳ vào những năm 1960 thông qua phong trào Charismatic, và cũng đã phát triển mạnh mẽ ở châu Phi cận Sahara (sub-Saharan Africa).

Những can thiệp siêu nhiên trực tiếp của tôn giáo có sức lôi cuốn có thể có nhiều hình thức - bao gồm cả những tín đồ nói những ngôn ngữ lạ (được gọi là glossolalia), tin rằng họ thực sự nghe lời của Chúa và tuyên bố nhìn thấy những dấu hiệu trực tiếp khác từ ý muốn của Chúa - nhưng có hai hình thức đặc biệt phổ biến: được chữa lành một cách vi diệu và được tiếp cận với của cải vật chất. Có rất nhiều sự trùng lặp giữa các nhà thờ rao giảng giáo lý về sự chữa lành bằng đức tin và những nhà thờ giảng về phúc âm phong phú hoặc thịnh vượng (abundance or prosperity gospel) - đó là ý tưởng rằng những người thực sự trung thành sẽ trở nên giàu có (Nguồn: McKeown).

Một số giáo phái Cơ đốc giáo, đặc biệt là phái Khoa học Cơ đốc (Christian Science), tin rằng y khoa là tội lỗi hoặc không hữu ích. (Khoa học Cơ đốc từ chối y học bởi vì nó là một phần của thế giới vật chất ảo tưởng và chỉ xem thế giới tâm linh là có thật). Thay vì dung phép chữa bằng đức tin như một cách bổ sung cho y khoa, hoặc chỉ dung đến như một giải pháp cuối, Khoa học Cơ Đốc chỉ dựa vào việc chữa lành bằng đức tin và loại trừ các phương pháp điều trị y khoa (Nguồn: Sandstrom).

Nhưng người ta không theo đuổi việc chữa lành bằng đức tin chỉ vì những lý do sâu sắc về tôn giáo và văn hóa. Những người bị bệnh nặng cuối cùng không còn các lựa chọn y khoa, và trong tuyệt vọng họ chuyển sang các khả năng phi y khoa (nonmedical). Chữa bệnh bằng đức tin chỉ là một hình thức điều trị phi y khoa và dường như mang đến cho những người bệnh đang tuyệt vọng có được hy vọng về một kết quả tốt đẹp.

Những tuyên bố của những thầy chữa bằng đức tin dường như không thực tế, và những người hoài nghi đã nhiều phen thách thức họ. Khá nhiều thầy chữa đã bị bắt quả tang là hoàn toàn gian lận.

Việc từ chối dịch vụ y tế và ủng hộ việc chữa bệnh bằng đức tin có vi phạm pháp luật không?

Tại Hoa Kỳ, nguyên tắc pháp lý (legal doctrine) trao cho những người trưởng thành có tinh thần lành mạnh toàn quyền quyết định những gì có thể và không thể làm đối với họ về mặt y tế, với một số hiếm trường hợp ngoại lệ (như khi một người bất tỉnh cần được điều trị cấp cứu, nguy kịch hoặc một bệnh nhân có nguy cơ nghiêm trọng về sức khỏe cộng đồng). Nếu bệnh nhân không phải là người lớn có thẩm quyền, vấn đề pháp lý sẽ trở nên phức tạp hơn. Trong hàng chục trường hợp ở Mỹ, cha mẹ có niềm tin Khoa học Cơ đốc đã từ chối điều trị cho con cái của họ, dẫn đến kết quả y tế tiêu cực, bao gồm cả tử vong cho con.

Hầu hết mọi tiểu bang ở Hoa Kỳ đều có một số loại hình miễn trừ tôn giáo dân sự hoặc hình sự đối với việc bỏ bê y tế, và chín tiểu bang có quyền miễn trừ tôn giáo đối với tội giết người do cẩu thả và ngộ sát trẻ em (Nguồn: Sandstrom; childrenshealthcare.org). Điều này khiến gần như không thể truy tố những bậc cha mẹ để con cái mình chết vì niềm tin tôn giáo của họ - một số ít trường hợp kết án thành công đã xảy ra khi cha mẹ để cho nhiều đứa trẻ chết theo cách này (Nguồn: Coyne). Các cơ quan lập pháp của tiểu bang tiếp tục đấu tranh để cân bằng giữa tự do tôn giáo với các nhu cầu của sức khỏe cộng đồng.

Những người hoài nghi nói gì về việc chữa lành bằng đức tin?

Những người hoài nghi lưu ý rằng các buổi biểu diễn của những thầy chữa bằng đức tin thường được viết kịch bản cẩn thận để tạo nên sự phấn khích trong đám đông và những thầy chữa sử dụng các kỹ thuật vay mượn từ các nhà thôi miên sân khấu (stage hypnotists) và những thầy chữa bằng đức tin khác. Phần lớn những gì mà người tham dự các buổi thuyết pháp này cảm thấy đều bắt nguồn từ sự kỳ vọng của họ và sự mở lòng của họ khi tin rằng có một loại năng lượng tâm linh nào đó đang ảnh hưởng đến họ. Họ có thể ngất xỉu vì họ đã thấy người khác ngất xỉu (và một số nhà thuyết giáo thực sự đã tát hoặc xô đẩy những người đó để chắc chắn rằng họ sẽ bị ngã xuống). Điều mà những người hoài nghi xem là một cơn “hysteria tập thể” (group hysteria), thì những người tin vào cách chữa này lại cảm thấy đó là “bàn tay của Chúa” (Nguồn: Nickell; CNN).

Những người theo chủ nghĩa hoài nghi và các phóng viên điều tra đã xem xét những tuyên bố của những thầy chữa bằng đức tin, và trong nhiều trường hợp đã tìm thấy bằng chứng cụ thể về sự lừa đảo trắng trợn. Có lẽ tai tiếng nhất là Peter Popoff, người đã kiếm được hàng triệu đô la trong thập niên 1980 chữa bệnh cho nhiều người và chứng minh kiến ​​thức dường như thần bí của mình về tên và bệnh tật của họ. Một James Randi đầy hoài nghi cùng một nhóm những điều tra viên đã sử dụng máy quét vô tuyến để chặn đường truyền vô tuyến từ vợ của Popoff, tiết lộ rằng cô ấy chỉ đơn giản là đọc thông tin từ thẻ cầu nguyện mà mọi người đã điền trước buổi chiếu và Popoff đang lắng nghe cô ấy qua một chiếc tai nghe. Dù bị Randi phanh phui trên chương trình The Johnny Carson Show, Popoff vẫn tiếp tục bán nước thánh và dịch vụ xóa nợ thần thánh (sell holy water and divine debt removal services) trên các chương trình truyền hình.

Một thầy chữa bằng đức tin khác bị vạch mặt vì những trò gian lận là Benny Hinn, người nêu ra nhiều chứng bệnh khác nhau mà anh ta được cho là có thể chữa lành trước một lượng lớn khán giả, sau đó mời những người cảm thấy anh ta đã chữa lành cho họ lên sân khấu để làm chứng về phép lạ của họ. Không ai trong số những người được đến sân khấu có bệnh hoặc chấn thương rõ rệt nào, vì rõ ràng là không có sự chữa lành thực sự nào xảy ra cả (Nguồn: McKeown). Những người cảm thấy họ đã được chữa lành có thể đã đến các sự kiện của Hinn với kỳ vọng mạnh mẽ rằng họ sẽ là một phần của phép màu và có thể đã tạm thời giảm bớt các triệu chứng. Tuy nhiên, các nhà điều tra, khi theo dõi một số trường hợp của những người tuyên bố Hinn đã chữa lành cho họ, đã không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy bất kỳ sự chữa lành thực sự đã xảy ra (Nguồn: CNN Sunday Morning; Nickell). Bất kỳ sự thoái lui triệu chứng hoặc lành bệnh ở những người tham gia làm chứng này thường có thể được giải thích là do thuyên giảm tự phát, do chẩn đoán sai hoặc do tác động mạnh của sự gợi ý.

Một số thầy chữa sử dụng các phương pháp giả mạo khác, chẳng hạn như trả tiền cho một kẻ đồng loã để giả vờ bị bệnh sau đó được chữa khỏi một cách bất ngờ. Một trong những kỹ thuật ngoạn mục nhất là “phẫu thuật tâm linh” (psychic surgery). Khi thực hiện phẫu thuật tâm linh, những thầy chữa, trong lúc “kêu gọi thần thánh”, sẽ giả vờ rạch một vết mổ (vết mổ sẽ nhanh chóng được chữa lành một cách kỳ diệu) hoặc làm động tác ấn ngón tay trực tiếp vào da thịt của bệnh nhân. Họ cẩn thận dùng tay hoặc khăn che giấu điểm vào (entry point), theo cách mà một ảo thuật gia sân khấu có thể che giấu bằng một xảo thuật khéo tay. Một khối mô tế bào không xác định rõ, thường là máu và nội tạng động vật mua từ một cửa hàng bán thịt, được lấy ra từ những gì có vẻ là đáng sợ, thường với những tuyên bố mang tính sân khấu về việc loại bỏ ung thư hoặc loại bỏ ma quỷ ra khỏi bệnh nhân. James Randi đã ghi lại và vạch trần hình thức lừa đảo đặc biệt xảo quyệt này. Không có vết thương thực sự nào cả (Randi).

Những người hoài nghi cũng mô tả tác hại của việc chữa bệnh bằng đức tin gian dối. Những người quyên góp tiền cho một thầy chữa giả mạo đã bị lừa và kết quả là có thể phải chịu một số khó khăn về tài chính. Nhưng vẫn có một số người cảm thấy như thể họ đã được chữa lành mặc dù họ vẫn chưa ngừng nhận được sự chăm sóc y tế hợp pháp, khiến tình trạng của họ trở nên tồi tệ hơn và trong một số trường hợp, họ có thể nhanh chóng tử vong. Các nhà điều tra đã theo dõi một số nạn nhân của Popoff và Hinn và đã phát hiện ra nhiều trường hợp những người đã bỏ qua chăm sóc y tế mà nếu thế, lẽ ra họ đã có thể được chữa khỏi bệnh (Nguồn: Nickell).

Ngoài ra, các nguyên lý về chữa lành theo đức tin và các mục vụ phong phú (abundance ministries) đã đặt các gánh nặng thất bại của chính họ lên trên những người tin theo họ, đồng thời ràng buộc sự thành công về tài chính và kết quả chữa bệnh của họ với cường độ đức tin của những tín đồ. Kết quả là, những người nghèo hoặc không trải qua sự chữa lành cảm thấy như thể họ có lỗi vì đã thiếu đức tin. Một ý tưởng tương tự như "nếu bạn bệnh hoặc nghèo, là chỉ vì bạn đã không cầu nguyện đủ" xuất hiện trong khái niệm Luật hấp dẫn phổ biến (popular Law of Attraction concept), gợi ý rằng “người ta có được kết quả tích cực trong hoàn cảnh sống chỉ bằng cách nghĩ về những điều tích cực” (people get positive outcomes in situations by simply thinking about positive things).

Tuy nhiên, những người hoài nghi không có lời cuối cùng cho việc chữa lành bằng đức tin. Các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu kỹ tác dụng của việc cầu nguyện đối với bệnh tật.

Khoa học nói gì về chữa lành bằng đức tin?

Trong khi những người hoài nghi coi những người chữa bệnh bằng đức tin cá nhân, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về tác dụng của lời cầu nguyện đối với sức khỏe. Nhiều nghiên cứu và phân tích tổng hợp đã được thực hiện, nhưng kết quả của chúng đưa ra nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Nhìn chung, một vài nghiên cứu đã chỉ ra những tác động tích cực nho nhỏ từ việc cầu nguyện; hầu hết các nghiên cứu không cho thấy bất kỳ tác dụng nào từ việc cầu nguyện; và một số nghiên cứu thậm chí còn phát hiện ra rằng việc cầu nguyện làm xấu đi kết quả về mặt y học của những đối tượng nghiên cứu (Nguồn: Carey).

Một nghiên cứu về sự cầu nguyện thay cho người khác (intercessory prayer) thường được xây dựng như thế này: Một nhóm bệnh nhân có các vấn đề y khoa giống nhau được chia thành hai nhóm. Có những người lạ từ nhà thờ cầu nguyện cho một nhóm bệnh nhân này và không cầu nguyện cho nhóm bệnh nhân kia. Sau một khoảng thời gian nhất định, các nhà nghiên cứu sẽ đo lường mức độ hồi phục của nhóm được cầu nguyện so với nhóm không được cầu nguyện.

Nghiên cứu đã được thực hiện trên những bệnh nhân AIDS, những người bị nhiễm trùng máu và những người đang hồi phục sau phẫu thuật ghép nối động mạch vành, trong số nhiều thể loại bệnh khác. Nghiên cứu trên bệnh nhân phẫu thuật bắc cầu động mạch vành rất đáng chú ý vì nó chia bệnh nhân thành ba nhóm: (1) Nhóm không được cầu nguyện nhưng bệnh nhân không biết liệu họ có nhận được cầu nguyện hay không, (2) Nhóm được cầu nguyện nhưng bệnh nhân không biết liệu họ có nhận được cầu nguyện hay không và (3) Nhóm được cầu nguyện và bệnh nhân biết mình được cầu nguyện. Các bệnh nhân được cầu nguyện và biết mình được cầu nguyện có tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật cao hơn các nhóm khác. Các nhà nghiên cứu cho rằng kiến ​​thức về việc chăm sóc tinh thần thêm có thể khiến họ lo lắng rằng tình trạng của họ nghiêm trọng (Tại sao họ lại cần những lời cầu nguyện?), Hoặc nó gây áp lực lên họ để đáp ứng những lời cầu nguyện, gây ra lo lắng, mà điều này được là sẽ tác hại thêm cho sức khỏe (Nguồn: Benson; Schneiderman; Carey).

Vấn đề thực sự của việc nghiên cứu lời cầu nguyện thay cho người khác sẽ trở nên rõ ràng khi bạn xem xét kỹ các phương pháp của các nghiên cứu. Một số nghiên cứu mắc phải các vấn đề phổ biến trong nghiên cứu thống kê như: kích thước cỡ mẫu nhỏ, kết quả đo lường sức khỏe không rõ ràng và “hiệu ứng thiện xạ” (sharpshooter effect) (là tình trạng trong đó rất nhiều hệ quả có thể xảy ra đến mức các nhà nghiên cứu không thể tránh khỏi việc sẽ tìm thấy một kết quả như ý trong số đó, giống như việc vẽ hồng tâm xung quanh các lỗ đạn sau khi bạn đã bắn, thay vì là bắn đạn trúng hồng tâm).

Các nhà khoa học có thể thực sự nghiên cứu về việc chữa lành bằng đức tin không?

Về mặt khoa học, đo lường một quá trình siêu nhiên về cơ bản là không thể. Điều gì được coi là một lời cầu nguyện? Những người cầu nguyện có nên gặp bệnh nhân không, hay chỉ cần biết tên bệnh nhân là đủ? Hoặc có thể họ nên xem ảnh của bệnh nhân? Họ có cần cầu nguyện cho một kết quả cụ thể không? Nghiên cứu về những bệnh nhân bệnh tim đã yêu cầu những người cầu nguyện phải bao gồm một cụm từ cụ thể: "để phẫu thuật thành công với sự hồi phục nhanh chóng, khỏe mạnh và không có biến chứng" (Nguồn: Carey). Liệu có thể (và có đạo đức) khi ngăn cản bạn bè và gia đình của bệnh nhân cầu nguyện cho họ và điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả của nghiên cứu không? Những lời cầu nguyện được đưa ra có cần tuỳ thuộc một tôn giáo hay giáo phái nào không?

Vào năm 2001, Tạp chí Y học Anh (British Medical Journal) đã xuất bản một nghiên cứu mang tính châm biếm (satirical study) về "lời nguyện cầu hồi tác" (retroactive intercessory prayer) cho thấy kết quả tích cực về diễn tiến bệnh đã xảy ra trong quá khứ trước đó. Nói cách khác, lời cầu nguyện đủ mạnh để du hành ngược thời gian một cách hiệu quả và ảnh hưởng đến sức khỏe bệnh nhân. Nghiên cứu nhằm mục đích phê bình chỉ ra sự bất khả thi về logic trong việc thử nghiệm khoa học về tác dụng của việc cầu nguyện, nhưng những người ủng hộ việc chữa lành bằng đức tin vẫn tiếp tục trích dẫn kết quả của nghiên cứu như bằng chứng về tính hiệu quả của nó.

Có rất nhiều giai thoại về những người được chữa khỏi dường như kỳ diệu sau khi được cầu nguyện. Tất nhiên, giai thoại không cung cấp bằng chứng thuyết phục và không thể được nghiên cứu một cách đáng tin cậy. Một người có thể trở nên khỏe hơn, đôi khi rất bất ngờ, và thoát khỏi một căn bệnh hiểm nghèo, và nếu người đó có niềm tin tôn giáo có thể sẽ liên hệ hai điều này với nhau.

Có thể một số lợi ích từ việc cầu nguyện là do hiệu ứng giả dược (placebo effect) - khi các phương pháp điều trị giả mạo có vẻ như thật sự mang lại hiệu quả tích cực thực sự cho bệnh nhân – Những tác dụng thường được đánh giá quá mức, nhưng vẫn là thực (Nguồn: Justman). Cũng có thể, trái ngược với kết quả nghiên cứu trên bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành, những người cầu nguyện cho ai khác có thể mang lại cho họ sự thoải mái, giảm lo lắng, căng thẳng và những biến chứng y khoa mà tình trạng stress kéo dài có thể gây ra. Và cũng giống như với những thầy chữa bằng đức tin cá nhân (individual faith healers), bệnh nhân có thể tạm thời cảm thấy tốt hơn, tin chắc rằng sức mạnh của lời cầu nguyện đã chữa lành cho họ. Các giai thoại về sự chữa lành bằng cầu nguyện hiếm khi đề cập đến việc theo dõi để xem liệu bệnh nhân có bình phục thực sự và vĩnh viễn hay không.

Nhưng cuối cùng, bằng chứng thống kê là không thể thuyết phục. Những lời cầu nguyện sẽ không làm tổn thương bạn (trừ khi bạn là một bệnh nhân tim và bạn biết mọi người đang cầu nguyện cho bạn), nhưng đối với các vấn đề y tế, điểm dừng đầu tiên của bạn nên là bác sĩ .

Nhiều thông tin hơn

Ghi chú của tác giả: Cách chữa bệnh bằng niềm tin hoạt động

Có vẻ không giống nhưng đây là một trong những bài báo đen tối nhất, khó chịu nhất mà tôi từng làm. Để xem những chiều sâu mà mọi người sẽ tận dụng sự tuyệt vọng, nỗi sợ hãi và niềm tin của ai đó đang nổi dậy.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...