Thứ Bảy, 18 tháng 12, 2021

LIỆU ĐÃ ĐẾN LÚC LOẠI BỎ CHẨN ĐOÁN PTSD?

Is it time to drop the diagnosis of PTSD?
Nguồn: Blog ABOUT TRAUMA (TraumaTheory.Com)
Posted by: C. FRED ALFORD (calford@umd.edu), January 29, 2017

Người dịch: TRẦN NGUYỄN NGỌC TRINH – Chuyên viên Tâm lý
Hiệu đính: BS NGUYỄN MINH TIẾN



THẬN TRỌNG

Nội dung trong bài viết này bị phản bác vì đi ngược tinh thần của “Kỷ yếu từ Hội thảo Lắng nghe Sang chấn: Thấu hiểu và Hành động”. Lý do là: “Giọng điệu của bài viết có tính gây tranh cãi quá mức so với một bộ sưu tập những nghiên cứu tích cực về cơ sở sinh học của sang chấn và những can thiệp lâm sàng mới xuất hiện đầy ý nghĩa.” Hãy tự lường trước những nguy cơ khi đọc bài đăng này. [Lưu ý của chính tác giả bài viết]

Khi xét trên nhiều khía cạnh, rối loạn stress sau sang chấn (PTSD) đã là một chẩn đoán với nhiều lợi ích phi thường. Nó kết nối khía cạnh chính trị trong Chiến tranh Việt Nam với sự dày vò của hàng trăm hàng ngàn cựu chiến binh Hoa kỳ (Alford, pp 9-13). Như những tác giả cuốn The Empire of Trauma (Đế chế của Sang chấn), Didier Fassin và Richard Rechtman, đã nói rằng sang chấn ngày nay không còn là một chẩn đoán lâm sàng mà là một bản án lương tâm. Lợi ích của nó là nó cho chúng ta “một khả năng chưa từng có trước đó để nói về - và sau đó trải nghiệm – sự bạo lực của thế giới.” (p276). Ngoài ra, sang chấn đã cho chúng ta một góc nhìn mới về lịch sử đương đại, cận cảnh và toàn diện. Lịch sử được viết từ góc nhìn của sang chấn là loại lịch sử được viết từ góc nhìn của những nạn nhân.

Độ tin cậy và độ hiệu lực

Nhưng tôi (tác giả bài viết) nghĩ rằng PTSD đã đi đến ngõ cụt về trí tuệ vì tất cả những lý do đã được bàn luận trên trang blog này suốt 2 năm qua. [Tác giả nói về trang TraumaTheory.Com]

Chúng ta có lẽ sẽ cảm thấy ít nuối tiếc hơn về điều này khi chúng ta hiểu rằng những bác sĩ tâm thần viết ra DSM III, nơi bắt đầu của tất cả, đã hiểu rằng họ không nói gì về thế giới. Họ đang cố tìm một cách đáng tin cậy để giao tiếp với nhau. Các bác sĩ tâm thần biết rằng những triệu chứng nhất định có khuynh hướng hội tụ lại với nhau, và các bác sĩ tâm thần có thể xác định một cách đáng tin cậy những bệnh nhân này. Nhưng, ngay cả (hoặc đặc biệt là) Robert Spitzer, chủ tịch nhóm chuyên khảo của Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ đặc trách DSM III, cũng biết rằng cuốn sách này không giải quyết được vấn đề về tính hiệu lực (validity problem). Nó không được cho là nhiệm vụ của cuốn sách này. Spitzer nói rằng APA thuê ông để đạt được những mục tiêu chính trị nhỏ bé nhất – đưa DSM hòa hợp/ngang hàng với Bảng Phân loại Bệnh tật Quốc tế của Tổ chức Y tế Thế giới, được biết đến với cái tên ICD. (Greenberg, p. 41)

Vấn đề về độ hiệu lực sẽ luôn là một vấn đề cho dù DSM đang đặc trưng hoá bất kỳ một thực thể có thực nào trên thế giới này. Độ tin cậy (reliability) thì lại đơn giản hơn nhiều, là chỉ cần có được một loạt các bác sĩ tâm thần đồng ý rằng các triệu chứng nhất định có khuynh hướng kết hợp với nhau theo cách mà chúng có thể được gọi là những rối loạn. Ngay cả khi như vậy, độ tin cậy của phần lớn các chẩn đoán trong DSM-5 chỉ ở mức khiêm nhường trong khoảng từ 0.40 đến 0.60, tính theo hệ số kappa của Cohen, một hệ số thống kê đo lường tính đồng thuận giữa người đo khác nhau (inter-rater agreement) với sự loại trừ khả năng có sự đồng thuận mang tính ngẫu nhiên. (Greenberg, pp. 225-228).

DSM chưa bao giờ đưa ra một kết luận về thế giới thực, khác với y khoa thực thể có thể chỉ ra được mối liên hệ nhân quả giữa chứng bệnh động mạch vành với cơn nhồi máu cơ tim (những sự kiện trong thế giới thực), và nếu hiểu được điều này thì có thể sẽ dễ dàng hơn để loại bỏ DSM. Cơn nhồi máu cơ tim trong DSM sẽ trở thành rối loạn đau ngực, một so sánh mà Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia đã không ngần ngại nhấn mạnh khi phát biểu về việc rút tiền tài trợ khỏi nghiên cứu dựa trên các hạng mục của DSM.

Nhiều người có thể sẽ cho rằng những khám phá hiện tại trong ngành khoa học thần kinh đã đưa những nghiên cứu về PTSD thành một lĩnh vực khoa học độc lập, tương tự như một phân nhánh của nghiên cứu y khoa. Tôi tin rằng phát biểu này đã bị phóng đại, một quan điểm cũng đã được thảo luận trong một vài bài đăng trên blog này (TraumaTheory)

Ngày nay, PTSD còn mang mục đích chính trị; điều đó cũng ổn thôi.

Tuy nhiên, nếu Fassin và Rechtman đúng thì PTSD, bằng nhiều cách không thoả đáng, đã trở thành một ngõ cụt trí tuệ. PTSD tiếp tục phục vụ một mục đích chính trị. Nhiều lần chẩn đoán về PTSD đã bị đề xuất loại bỏ. Thú vị thay, chính những người mắc phải cái gọi là PTSD, những người bảo vệ nhiệt thành nhất của PTSD, tin rằng nó mang đến cho sự đau khổ của họ một phẩm giá và biến sự đau khổ đó thành một thực tại khách quan. Nó cũng hữu ích cho các mục đích mã hóa và thanh toán cũng như là khoản bồi hoàn từ VA (Hội Cựu chiến binh Mỹ).

Vậy nên hãy giữ lại chẩn đoán này nhưng nhớ rằng nó không còn thuộc lĩnh vực khoa học.

Thực ra, thuật ngữ “lĩnh vực khoa học” (scientific realm) khá phiền phức. Sẽ khá hữu ích khi nói rằng PTSD là một chẩn đoán mang tính chính trị (bao gồm cả khía cạnh chính trị của các tổ chức chuyên nghiệp, ví dụ như Hiệp hội Tâm thần Hoa kỳ với Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia), nhưng PTSD thực sự lại là điều đang ngụ ý về nhiều loại đau khổ của loài người. Khi nói nó không còn thuộc về “lĩnh vực khoa học”, tôi không muốn mọi người hiểu như cái cách mà Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia (Hoa Kỳ) đã tiếp cận vấn đề sang chấn, như cách Greenberg (2013, p.344) mô tả nó giống như điện và thịt (Nguyên văn: “electricity and meat”), cả hai đều có thể đo lường được. Một thứ gì đó có thể không thuộc về khoa học nhưng lại rất, rất thực. PTSD tạo nên thứ sang chấn mà nó khám phá, nhưng chính nó không tạo nên sang chấn (PTSD creates the trauma it discovers, but it does not create trauma)

Cách chữa lành đau khổ

Hãy tạo cơ hội cho những người đau khổ cơ hội được chia sẻ về đau khổ của họ với những người khác, với một nhóm người, có thể có các nhà trị liệu, bất kì ai. Cố gắng yêu thương hoặc ít nhất là quan tâm đến những người đang đau khổ. Điều này đòi hỏi một môi trường biết quan tâm lẫn nhau, chứ không phải một đường dây cung cấp các loại thuốc hoặc “các liệu pháp thực chứng.” Cho họ một chỗ ở an toàn hoặc một dưỡng viện khi cần thiết.

Hãy nhận ra rằng sự đau khổ của con người là một mạng lưới ngầm khổng lồ. Chúng ta thường không nhìn thấy điều đó trừ khi nó quá bi đát, nhưng nó vẫn ảnh hưởng đến rất nhiều người, kể cả sự đau khổ vì sang chấn. Hàng triệu người vẫn trải qua sang chấn một mình tại Mỹ.

Sang chấn là có thật và việc chịu đựng nỗi đau khổ do nó gây ra là rất kinh khủng. Theo tôi, việc nghĩ về PTSD theo kiểu như từ trước tới nay đã không còn hữu ích nhưng nếu nó vẫn còn hữu ích ở khía cạnh chính trị hoặc thậm chí là được hợp pháp hóa thì có lẽ nó đã có vị trí cho nó. Chúng ta không nên tưởng tượng rằng bằng cách nào đó chúng ta đang khép lại một thực thể tên là sang chấn. Lĩnh vực của chúng ta còn nhiều nhầm lẫn và lộn xộn hơn bao giờ hết.

Có lẽ cách tốt nhất là nhớ rằng các triệu chứng tâm lý của con người nhìn chung đều có ý nghĩa và việc nói về sự đau khổ của chúng ta là cách tốt nhất ta có thể làm. Chia sẻ là cách con người làm sáng tỏ ý nghĩa các triệu chứng với bản thân họ và với những người xung quanh. Đau khổ có thể xuất hiện với nhiều bộ dạng, và việc dán nhãn cho từng bộ dạng ấy là việc không cần thiết. “Hãy nói cho tôi nghe điều làm bạn đau khổ và cùng xem chúng ta có thể cùng nhau hiểu điều đó như thế nào. Và nếu như bạn quá đau đớn, một vài loại thuốc sẽ giúp ích, ít ra là trong một thời gian ngắn”.

Liệu đây có phải là một cách ngây thơ bất khả thi để bắt đầu?

[Thật khó để người đọc có thể hiểu hết ý của tác giả bài viết này nếu chúng ta không biết lịch sử hình thành chẩn đoán PTSD tại Hoa Kỳ, nhất là khi nó có liên quan đến vấn đề cựu chiến binh Mỹ từ cuộc chiến Việt Nam, cùng với những gì liên quan đến khuynh hướng chống DSM trong và ngoài giới tâm thần học trên thế giới. Vui lòng xem thêm những bài đọc khác có liên quan trên Blog Trăng Non Online - Chú thích của TN Online]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...