Tựa gốc: NHÌN LẠI VÀ SO SÁNH HAI CÁCH TIẾP CẬN CỦA TRƯỜNG
PHÁI MILAN
"Milan Revisited: A Comparison
of the Two Milan Schools"
Tác giả: SERGIO PIRROTTA - Ed.M., L.C.S.W.
Nguồn: JST – Journal of
Systemic Therapy; Volume 3, Issue 4, Dec 1984, Guilford Publication Inc.
Published Online: May 2016, GP
- Guilford Press Periodicals
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
Sergio Pirrotta là Giám đốc Huấn
luyện tại Greater Lawrence Training
Institute, Lawrence, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Ông là người Mỹ gốc Ý. Ông
đã sang Ý hoàn tất khoá huấn luyện về trị liệu hệ thống gia đình theo trường
phái Milan tại Trung tâm Centro Milanese
per lo Studio della Famiglia. Trong khi ở đó, ông đã mời nhóm nghiên cứu của
Tiến sĩ Selvini Palazzoli. Ca lâm sàng được trình bày trong bài viết này đã được
đổi tên để bảo mật cho gia đình này. Phần trình bày về phương pháp làm việc,
các quan sát và bàn luận là dựa theo quan điểm chủ quan của tác giả chứ không đại
diện cho những giải thích chính thức từ lý thuyết và thực hành của những nhà
lâm sàng có liên quan.
Phần 1
Các trường phái trị liệu khác nhau có lý thuyết
và phương pháp làm việc khác nhau, ngay cả khi chúng xuất phát từ cùng một gốc
rễ. Nhóm Milan gần đây đã bị chia tách (bài này được viết năm 1984, gần thời điểm
nhóm Milan bị tách đôi – ND), mỗi bên thực hiện một loại liệu pháp gia đình riêng,
nhưng vẫn sử dụng các nguyên tắc hệ thống (systemic
principles) tương tự nhau. Những khác biệt này có thể được hiểu như là kết
quả của cả hai bối cảnh làm việc của hai nhóm và định hướng cá nhân của các nhà
lâm sàng. Nhóm nghiên cứu của Selvini Palazzoli
được nhận xét là có tính chiến lược hơn trong cách tiếp cận, nhóm này phát triển
các chiến thuật để tác động đối ngược lại với các trò chơi tương tác cứng nhắc trong
các gia đình bệnh lý (more strategic in
its approach, developing tactics to counteract the rigid interactional games of
pathological families), trong khi đó, Nhóm đào
tạo trị liệu của Boscolo và Cecchin được xem là có định hướng nhiều hơn trong
việc chuyển tải các yếu tố của một “nhận thức luận hệ thống” cho gia đình trong
quá trình trị liệu (transmission of
elements of a systemic epistemology to the family during therapy). Tác động
của những định hướng này đối với quá trình trị liệu sẽ được thảo luận bằng cách
so sánh giữa hai trường phái.
Đã có nhiều bài viết về những cách tiếp cận
khác nhau trong trị liệu gia đình, về các mô hình khác nhau ra sao (Guerin, 1976,
Hoffman 1981, Madanes 1981, McKinnon 1983), và bằng cách nào để các lý thuyết
khác nhau có thể được tích hợp lại (Frazer 1982, Felman and Pinsof 1982, Grunebaum
and Chasin 1982, Pinsof 1983, and Sluzki 1983). Mặc dù có những khác biệt, các
“trường phái” này vẫn xuất thân từ một khởi đầu chung là trào lưu trị liệu gia
đình trước đó không bao lâu. Ví dụ, Jay Haley đã làm việc với những nhà trị liệu
ở MRI (Mental Research Institute – Viện Nghiên cứu Tâm thần) và sau đó, với
Minuchin và các nhà trị liệu ở Trung tâm Hướng dẫn Trẻ em Philadelphia. Nhóm
Milan bắt đầu cuộc hành trình của họ bằng cách tiếp thu nhiều điều từ sự cố vấn
của Paul Watzlawick từ đầu thập niên 1970. Quá trình hình thành những trường
phái khác nhau này, để hình thành những phương pháp tiếp cận trị liệu khác
nhau, có thể được xem như là sự biệt hoá (differentiation) bắt nguồn từ một nền
tảng chung ban đầu là quan điểm hệ thống, và sau đó được thích ứng với những bối
cảnh áp dụng đặc thù. Người ta chỉ có thể ước đoán một phần nào đó về những việc
này khi hồi cứu lại, nhưng cũng có thể là những nhà sáng lập các cách tiếp cận
này đã đáp ứng lại với những đặc trưng từ cá nhân họ, những xu hướng trong nhân
cách của họ, hoặc để đáp ứng với bối cảnh mà họ chọn để làm việc. Bài viết này
chỉ khảo sát hai nhóm nhà trị liệu, mà cho đến gần đây, vẫn được xem là những
nhà sáng lập ra một “trường phái” trị liệu, rồi phân nhánh ra để đi sâu vào
cùng một “khu rừng hệ thống” (systemic woods).
LỊCH
SỬ
Mara Selvini Palazzoli đầu tiên quan tâm đến
cách tiếp cận hệ thống gia đình khi bà cảm thấy thất vọng về việc trị liệu cho
những bệnh nhân chán ăn theo phương pháp trị liệu phân tâm cá nhân nhưng không
có tiến triển gì. Năm 1972, bà cùng với Giuliana Prata, Gianfranco Cecchin và
Luigi Boscolo, được sự cố vấn của Paul Watzlawick, đã phát triển một nhóm
nghiên cứu và trị liệu cho những bệnh nhân loạn thần và chán ăn bằng cách xem
đơn vị gia đình như những hệ thống. Phương pháp luận mà họ triển khai đã được
mô tả trong tác phẩm của họ, Paradox and
Counterparadox, xuất bản lần đầu tại Ý năm 1975, và xuất bản tại Hoa Kỳ năm
1978. Những bài viết sau đó đã làm rõ thêm các kỹ thuật của họ (1978b, 1980,
198Ob).
Đầu thập niên 1980, nhóm bắt đầu chia tách
ra, hai người phụ nữ, Prata and Selvini Palazzoli vẫn tiếp tục quan tâm đến việc
nghiên cứu lâm sàng, còn hai người đàn ông, Cecchin and Boscolo, thì theo đuổi
sự quan tâm của họ với việc huấn luyện và giảng dạy. Vào năm 1982, nhóm chính
thức chia đôi. Boscolo và Cecchin thành lập Trung tâm Centro Milanese per lo Studio Della Famiglia, trong khi Prata va
Selvini Palazzoli đã hình thành một nhóm nghiên cứu với những người đã từng tốt
nghiệp các khoá huấn luyện của Chương trình Đào tạo Milan trước đó. Để nói gọn
lại, trong bài này, nhóm của Cecchin và Boscolo sẽ được gọi là “The Centro”,
còn nhóm của Selvini Palazzoli sẽ được gọi là “The Nouvo Centro”.
Trong thời kỳ đầu tiên khi còn làm việc cùng
nhau, hoạt động của nhóm Milan tập trung vào sự phát triển một phương pháp lâm
sàng. Thời điểm hiện nay (tức thời thập niên 1980), công việc lâm sàng trở
thành thứ yếu, nhóm Cecchin và Boscolo chủ yếu làm về huấn luyện, còn nhóm
Selvini Palazzoli chủ yếu làm nghiên cứu. Không còn sự tiếp xúc chính thức nào
giữa hai nhóm lúc này nữa.
HOẠT
ĐỘNG HIỆN TẠI
Về mặt lâm sàng, công việc của nhóm Centro vẫn
theo những cách thức tương tự như đã được mô tả trong các sách và bài viết đã
nêu. Họ vẫn thực hiện liệu pháp với 5 phiên làm việc và vẫn làm trị liệu với
nhóm của họ, dù rằng lúc đó nhóm chỉ gồm những đào tạo viên và học viên của họ.
Các gia đình sẽ được quan sát bởi một trong hai người, Cecchin hoặc Boscolo,
trong trường hợp trị liệu bởi các học viên học năm thứ nhất trong chương trình đào
tạo; hoặc làm đồng trị liệu bởi cả hai học viên từ các nhóm đào tạo ở bậc nâng
cao. Cách bố trí làm việc của họ được mô tả đầy đủ trong quyển sách của Whiffen
and Byng-Hall, tựa đề Family Therapy
Supervision (1982).
Những nguyên tắc về việc lập giả thuyết, tính
tuần hoàn và tính trung dung (hypothesizing, circularity and neutrality) vẫn
còn là những hướng dẫn cơ bản cho việc thực hiện những phiên trị liệu của họ,
nhưng một số những khác biệt về phương pháp lâm sàng của họ cũng đáng để lưu ý
đến. Giờ đây, họ tin rằng các gia đình thường xuyên có sự thay đổi và tiến triển,
chứ không còn niềm tin kiên định về việc triệu chứng là yếu tố giúp điều hoà
cân bằng nội môi cho hệ thống nữa. Kết quả là họ ít còn dựa vào những kiểu can thiệp và chỉ định vào cuối phiên trị liệu nữa
(end-of-session interventions and
prescriptions) và thậm chí cũng không thường thực hiện những can thiệp sau khoảng nghỉ giữa phiên để hội ý (intervention after their intrasession
conference). Cũng đáng chú ý là thời gian của cả liệu trình lẫn khoảng cách
giữa các phiên trị liệu cũng khác rất nhiều và thường hay thay đổi. Đôi khi các
gia đình có thể được gặp lại một hoặc hai tuần sau phiên làm việc trước, có lúc
thì khoảng cách giữa hai phiên có thể là hai tháng hoặc lâu hơn, mặc dù khoảng
cách mỗi tháng một lần thường áp dụng nhiều nhất. Việc trị liệu thậm chí còn ngắn
hơn nhiều so với những “liệu pháp ngắn hạn mà kéo dài” (Nguyên văn: “long brief therapy”), mà theo mô tả
trong sách của họ thì thường chỉ khoảng 5-8 phiên trị liệu so với 10-12 phiên
như trước đây. Điều cũng đáng lưu ý sau cùng đó là nay họ nhấn mạnh nhiều vào sự
tương tác trong hệ thống gia đình & nhà trị liệu
(the family-helpers supra system interactions) nhiều hơn là những
tương tác chỉ ở bên trong gia đình thân chủ. [Lưu ý: ở đây tác giả dùng từ “supra
system” – supra: nghĩa là “ở trên” - để chỉ một “hệ thống trị liệu” được thiết
lập bao gồm gia đình thân chủ và nhóm các nhà trị liệu Milan – ND]. Ngoài ra những
thay đổi tinh tế hơn trong phương pháp làm việc của họ cũng được làm rõ trong
phần trình ca của bài viết này.
Công việc của nhóm Nouvo Centro (tức nhóm của
Selvini Palazzoli) thì khác xa với những gì được mô tả trong quyển sách trên.
Những thực nghiệm của nhóm với điều được gọi là kiểu “kê đơn/chỉ định bất biến”
(invariant prescription) đã khiến họ nhận một phương pháp luận rất đặc hiệu chỉ
dành cho những mục tiêu nghiên cứu lâm sàng. Một sự mô tả đầy đủ về phương pháp
lâm sàng này thì nằm ngoài phạm vi của bài viết này và cũng được dự định để
công bố trong tương lai bởi nhóm nghiên cứu. Trong một bài viết gần đây (1984),
DiNicola đã mô tả một số nét sơ lược về công trình của nhóm. Một tóm tắt rất ngắn
về phương pháp làm việc cũng được đưa ra ở đây. Những mô tả này dựa trên những
bàn luận giữ tác giả với nhóm nghiên cứu và những quan sát của chính ông và nó
có thể không chính xác ở một số chi tiết vì nó không lấy ra từ một phương pháp
luận được viết chính thức.
Khi một gia đình được chuyển đến nhóm Nouvo
Centro, trước tiên họ phải liên hệ với nhà trị liệu bằng điện thoại. Những đặc
điểm riêng của ca được thu thập một cách vắn tắt và nhóm sẽ quyết định xem ca
này có thích hợp để nhóm nhận trị liệu hay không. Gia đình sau đó sẽ được mời để
thực hiện cuộc phỏng vấn ban đầu (initial interview), và thường là cả gia đình
hạt nhân (nuclear family), bao gồm bệnh nhân chỉ định (identified patient) và bất
cứ thành viên nào khác đang sống cùng nhà đều sẽ được yêu cầu tham dự. Phiên trị
liệu đầu tiên được thực hiện với mục đích không chỉ quan sát để có được một “bản
đồ quan hệ” (relational map) về gia đình, mà còn để đánh giá xem các bậc phụ mẫu
có phải là những ứng viên tốt cho những yêu cầu khó khăn được đặt ra cho họ
trong quá trình trị liệu hay không. Nếu nhóm nhận thấy rằng gia đình phù hợp với
các thức trị liệu này, họ (gia đình) sẽ được thong báo rằng, mặc dù vấn đề của
họ là một vấn đề khá nghiêm trọng, nhưng nhóm sẽ giúp đỡ cho họ, nhưng nhóm chỉ
có một loại liệu pháp để cung ứng thôi. Cách trị liệu này rất khó, nhưng đã được
chứng minh là có hiệu quả trong hầu hết các trường hợp. Phần còn lại của gia
đình sẽ được “giải tán” và chỉ có hai vị phụ mẫu được gặp lại mà thôi. Thông điệp
sẽ được lập lại với hai vị phụ mẫu rằng nhóm chỉ có một loại liệu pháp để cung ứng
cho họ và rằng nó chỉ hiệu quả khi có sự hợp tác hoàn toàn của họ. Nếu họ không
thể chấp nhận hoặc không sẵn lòng để hợp tác đầy đủ với việc trị liệu, nhóm sẽ
không có cách nào khác để cung ứng cho họ và gia đình sẽ được hối thúc đi tìm một
nơi khác để giúp họ. Nếu hai vị phụ mẫu đoan chắc sự hợp tác của họ, việc trị
liệu có thể được tiếp tục.
Về điểm này, độc giả nên nhớ rằng nhóm của
Selvini rất ưa chuộng thanh danh cao quý của họ (Nguyên văn: significant
reputation), do bởi họ từng trị liệu thành công cho một số trường hợp rất nặng
và trong bối cảnh họ làm nghiên cứu thì việc đưa ra những thông điệp như thế sẽ
hợp lý hơn là nếu chúng không được cho biết. Có thể so sánh với trường hợp
phương pháp chữa trị của Nhóm phẫu thuật ghép tim ở Houston dành cho những bệnh
nhân mắc bệnh tim cũng vào đầu thập niên 1970. Cũng giống như trường hợp những
bệnh nhân là ứng viên cho phẫu thuật ghép tim, nhóm Nouvo Centro cũng chọn những
bệnh nhân nào đã bị thất bại bởi các phương pháp trị liệu khác và khi mà sự tuyệt
vọng của gia đình về vấn đề của họ khiến họ trở nên sẵn lòng tham gia vào cách
tiếp cận trị liệu mang tính thực nghiệm này.
Khi gia đình đã đồng ý tham gia trị liệu,
nhóm chuyên viên sẽ bắt đầu làm việc, và chỉ tiếp riêng hai vị phụ mẫu mà thôi.
Trong giai đoạn đầu, hai vị phụ mẫu sẽ được nhóm cung cấp những chỉ dẫn chi tiết,
trong đó bao gồm việc cả hai bố mẹ thực hiện việc sắp xếp để cùng nhau rời khỏi
nhà mỗi tuần một lần (a weekly joint exit from the home for both parents
together). Việc rời khỏi nhà này được ấn định vào một khoảng thời gian nào đó
và phải không được giải thích cho bất cứ thành viên nào trong gia đình, cũng
như không giải thích cho bất cứ ai khác. Thông điệp duy nhất gửi lại đó là bố mẹ
sẽ rời khỏi nhà và sẽ trở về vào một giờ ấn định nào đó. Họ phải ra khỏi nhà
cùng nhau và trở về cùng với nhau. Họ làm gì khi vắng nhà là tuỳ theo cách của
họ. Trong lúc vắng nhà, họ có thể ở chung với nhau hay ở riêng thì tuỳ họ,
nhưng phải cẩn thận không nên đến những nơi mà họ thường đến vì dễ bị bạn bè và
người thân nhìn thấy. Dù bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng không được tiết lộ cho bất
kỳ ai biết về nơi họ đã đến hoặc họ rời khỏi nhà để làm gì, và cũng thận trọng
không để lộ ra bất cứ tình tiết nào cho thấy sự rời nhà của họ là một phần của
phương pháp trị liệu. Phần thời gian còn lại, hai bố mẹ được hướng dẫn cách
quan sát những tương tác trong gia đình, ghi chú lại những quan sát để có thể
chia sẻ với nhóm nghiên cứu.
Các phiên trị liệu sau đó sẽ dành cho việc
theo dõi những phản hồi của hệ thống gia đình về những lần “xuất gia chỉ định”
(prescribed exit), quan sát những
thay đổi về vai trò và hành vi của các thành viên trong gia đình. Nhóm cũng sẽ
tiếp tục hướng dẫn (coach) cho hai bố mẹ khi mà những lần xuất gia ngày càng
gia tăng về tần suất và thời lượng, cho đến khi nhóm nhận thấy rằng mô hình
tương tác thường lệ trước đây đã thay đổi và khi diễn ra một sự thuyên giảm triệu
chứng ở bệnh nhân chỉ định.
Một cái nhìn sâu hơn vào hai trường hợp lâm
sàng sau đây sẽ minh hoạ cho sự khác biệt về cách tiếp cận của hai trường phái
Milan này.
Đón
xem tiếp Phần 2
TRÌNH CA A – GIA ĐÌNH BERIO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét