Tựa đầy đủ: Mối
quan tâm của việc sử dụng các vật nổi trong cách tiếp cận những phần đau đớn nhất
trong lịch sử của bệnh nhân và gia đình của họ
Tựa gốc: “Intérêt
de l'utilisation des objets flottants dans l'approche des pans les plus
douloureux de l'histoire des patients et de leur famille”
Bản tiếng Anh:
“Interest of the use of floating objects in the approach of the most painful
parts of the history of patients and their families”
Tác giả: FLORENCE CALICIS – Nhà tâm lý trị liệu
hệ thống người Bỉ. Bà đã sang sang VN nhiều lần trong những năm qua để tham gia
công tác đào tạo trong các khoá huấn luyện về tâm lý trị liệu hệ thống tại
Tp.HCM.
Nguồn: CairnInfo - 12/01/2006 - Liệu pháp Gia
đình 2006/4 (Tập 27), Tr. 339- 359
Lược dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
Xem lại Phần 1 - Phần 2 - Phần 3
Phần 4
MỐI QUAN TÂM VỀ VIỆC SỬ DỤNG CÁC VẬT THỂ NỔI ĐỂ TIẾP CẬN NHỮNG NỖI
ĐAU KHỔ ĐẶC BIỆT KHÓ KHƠI GỢI
Chúng ta hãy quay trở lại với nỗi
đau khổ vẫn sống động của đứa trẻ con bên trong những người lớn và tình thế tiến
thoái lưỡng nan của nhà trị liệu.
Quá trình tham khảo ý kiến của
một người "thu nhỏ" (E: shrink; F: psy) thật không hề dễ dàng, đặc biệt
là khi bạn đang kéo theo sau lưng mình một câu chuyện đặc biệt nặng nề, đáng sợ
hoặc đáng xấu hổ. Chúng ta có thể đánh giá cao những người có can đảm thực hiện
bước đi này. Dĩ nhiên, họ đã được đưa đến bởi sự đau khổ của họ hoặc bởi các
triệu chứng gây mất chức năng và làm thu hẹp phạm vi trải nghiệm của một con
người. Đôi khi chính gia đình hoặc mạng lưới của họ đã đưa họ đến đó. Ngay cả
khi họ tự nguyện đến trị liệu, những bệnh nhân này vẫn sợ đến. Và có rất nhiều
nỗi sợ … Sợ khi phải nói về những gì đã làm tổn thương họ quá nặng nề, sợ vì có
thể đau khổ nhiều thêm nữa, vì đây là những người rất muốn vạch ra lằn ranh cho
những quá khứ đau khổ này. Sợ rằng bằng lời nói của mình, chúng ta sẽ ây xúc phạm
đến họ, sợ những gì họ có thể phát hiện ra nơi bản thân còn có thể khủng khiếp
hơn nữa, sợ bị đánh giá, bị hiểu lầm, xấu hổ… Điều quan trọng là người hành nghề
cần nhận ra rằng quá trình trị liệu là khó khăn và rất chính đáng khi cố gắng gặp
gỡ bệnh nhân trong chính nỗi sợ hãi của họ. Chúng ta có thể xem quá trình này
như một dấu hiệu của sức mạnh chứ không phải của sự yếu đuối.
Trong thực tế làm việc của
mình, chúng ta có thể đối diện với cả hai tình huống khi có một sự kiện đặc biệt
đau đớn vừa xảy ra và ảnh hưởng đến một hoặc nhiều thành viên trong gia đình (mất
người thân, bệnh tật, gây hấn, cố gắng tự tử...) cũng như những tình huống có
những trải nghiệm trước đây, gây đau khổ, đôi khi là đến mức gây sang chấn, đã qua,
nhưng dù có ý thức hay không, vẫn có thể
biểu hiện ra trong hiện tại dưới nhiều hình thức: lo âu, triệu chứng, bệnh lý tâm
thần, hoặc thể chất ...
Nếu câu chuyện đau lòng này vẫn
còn đó với những tác hại của nó, chúng tôi sẽ phải quay lại với nó để lãnh chịu
nó, nhưng liệu chúng ta sẽ tiếp tục nó như thế nào khi cảm thấy một sự miễn cưỡng
lớn từ phía bệnh nhân?
Sẽ có nhiều tình huống khác
nhau cần được nêu ra ở đây:
a/ Nếu sự kiện gây sang chấn mới vừa xảy ra
gần đây, điều mà Delage (2000) gọi là “vết thương tâm lý đang rộng mở”,
thì đó là một sự “làm việc với tình trạng khủng hoảng”, đều sẽ được bàn đến sau.
Bạn phải kiên quyết một chút, dám quay trở lại với sự kiện đau lòng, ngay cả
khi người đó đang kháng cự lại với việc tiếp cận đến điều đó. Để làm được việc
này, điều cần thiết trước tiên là phải tạo ra một bối cảnh an toàn (liên minh
trị liệu tốt, chứa đựng cảm xúc tốt, rất có tính hỗ trợ và đồng cảm) để có thể
gợi lên sự kiện và những cảm xúc liên quan. Nếu chúng ta làm khác quá nhiều so
với những gợi ý này, sẽ có nguy cơ xảy ra sự đóng băng (Nguyên văn: “risque
d’enkystement” – “thu vào trong vỏ bọc”).
Đối với những người đặc biệt kháng
cự lại việc quay trở lại với các sự kiện, đôi khi tôi sử dụng phép ẩn dụ của J.P.
Mugnier: đạt đến một sự "thu nhỏ" để nói về sự kiện gây đau đớn một lần
nữa, tựa như cho uống một liều xi-rô kháng sinh: điều đó thật tệ, chúng ta
không muốn trải qua việc đó, nhưng nó lại có tác dụng chữa lành! Một vấn đề đặt
ra là nếu khi quay trở lại mà mà sự kiện đau đớn lại đến quá nhanh, thì điều
quan trọng là phải làm như thế bằng cách nhấn mạnh vào các nguồn lực của cá
nhân, của gia đình và khả năng trong việc tái kiến tạo của họ (reconstruction),
để tiếp tục sống với nó. Khả năng hành động để chuyển
đổi sang chấn - không còn phải chịu đựng như một nạn nhân thụ động - là
một người dẫn
dắt cho năng lực vượt khó (Nguyên văn: “tuteur de résilience”) (B.
Cyrulnik, 2000).
b/ Nếu nỗi khổ đau đã cũ nhưng dường như vẫn chưa tiêu hoá hết, tôi nghĩ cần
phải tiến hành một cách thận trọng hơn. Thật vậy, nếu người đó tiếp tục phải chịu
đựng nó, dưới hình thức các triệu chứng hoặc bằng những nỗi lo âu khiến phải đến
trị liệu, thì người đó đã lập ra các cơ chế phòng vệ để sống với điều đó. Trong trường
hợp này, việc muốn giải quyết các vấn đề nhức nhối của câu chuyện một cách đối đầu trực tiếp
và quá
nhanh đôi khi bị chống chỉ định; bạn phải có khả năng tôn trọng
sự kháng cự của mọi người. Vì sao?
Đã đến lúc khôi phục lại ý niệm
về sự phản kháng (résistance). Trong nhóm làm việc của chúng tôi, chúng tôi tin
rằng sự kháng cự của bệnh nhân không phải là điều mà chúng tôi phải chống lại
mà là điều cần được chúng tôi tôn trọng, bởi vì đó là những biện pháp bảo vệ
giúp họ có thể sống sót, thậm chí là còn giúp họ tự sửa chữa. Chúng là sự bảo vệ
họ chống lại sự sụp đổ (l’effondrement). Việc cố nói ra bằng mọi giá về sự kiện
sang chấn mà họ muốn giữ im lặng có thể tạo thành một sự tái lập lại sang chấn,
một sự xâm phạm mới vào trong tâm lý vốn đã rất yếu mềm. Bệnh nhân là vị cố vấn
tốt nhất để cho chúng ta biết nhịp độ làm việc phù hợp và sắp xếp những gì họ
muốn chia sẻ và những gì họ muốn giữ lại cho riêng mình, bên trong “khu vườn bí
mật” của họ (Xem lại phần trước: Câu chuyện mà họ kể cho chúng ta là một sự lựa
chọn). Chúng tôi nghĩ rằng luôn có những lý do chính đáng để không phải nói mọi
thứ ngay lập tức. Chúng tôi nói với bệnh nhân của chúng tôi rằng chúng tôi cung
cấp cho họ chiếc phanh (chiếc thắng). Tôi nói ẩn dụ về những lá bài "joker" luôn
có trên chiếc bàn nhỏ đặt nằm giữa chúng tôi mà đối với tôi nó tượng trưng cho một
khoảng không gian trung gian (intermediate space) giữa chúng tôi. Vì vậy, tôi
yêu cầu họ vui lòng lấy nó ngay khi tôi đi quá xa vào khu vườn bí mật của họ.
Tôi giải thích rằng tôi cảm thấy thoải mái hơn khi nói và đặt câu hỏi khi nào
có sự đảm bảo rằng họ có thể ngăn tôi lại.
Nếu việc tạo ra một “văn hóa an
toàn” (culture de sécurité) (P. Rober, 1998) đòi hỏi phải tôn trọng các phương
thức phòng vệ mà phía thân chủ đã đưa ra, thì điều này không có nghĩa là chúng
ta phải tránh nói về những gì khiến họ sợ hãi hoặc khiến phải “nói sai” và cũng
không có nghĩa là chúng ta cứ phải nói loanh quanh không đi vào chủ đề. Chúng
ta hãy hiểu rõ về nhau: tạo ra một nền văn hóa an toàn cũng có nghĩa là cho bệnh
nhân của chúng ta thấy rằng chúng ta không sợ những
gì khiến họ sợ hãi, rằng chúng ta cảm thấy đủ mạnh mẽ để hỗ trợ họ trong
những “vùng xám” của họ. Đôi khi điều đáng sợ lại là họ có thể tin vào chúng
ta… rằng chúng ta sẽ không để mình đi tới. Để làm được điều này, rõ ràng là nhà
trị liệu cần cảm thấy thoải mái hơn, vì bản thân phải dám đối mặt và làm việc với
những phần đáng sợ nhất bên trong chính bản thân mình. Do đó có tầm quan trọng của
liệu pháp cá nhân cho chính những người làm can thiệp (personal therapy).
Ví dụ lâm sàng của Jonas cho thấy
sự hỗ trợ của một vật thể nổi có thể là một phương tiện hữu ích khi nhà trị liệu
đang loay hoay với tình thế tiến thoái lưỡng nan khi phải quay lại một câu chuyện
có vẻ rất đau buồn và cách tiếp cận trực diện với nó có thể sẽ gây phản tác dụng.
Điều rõ ràng là nhà trị liệu phải có trách nhiệm tạo ra một môi trường làm việc
an toàn, trong đó các thành viên trong gia đình có thể khám phá lại và dần dần
tiếp cận những phần nặng nề nhất và đáng sợ nhất trong lịch sử của họ.
Chúng ta hãy xem xét lại ở đây
các khía cạnh làm cho các đối tượng nổi trở nên thích hợp theo quan điểm này:
a/ Chúng ít gây đe dọa: Chẳng hạn
như trong câu chuyện (tale), chúng ta đang ở trong địa hạt của những “việc-như-thể-là”
(as-ifs), của trò chơi, chứ không phải trong lãnh địa của sự thật hay thực tế.
Câu chuyện là một huyền thoại (legend), một "huyễn tưởng" (fantasy),
và không phải là thực tế của gia đình. Câu chuyện gây ra sự cộng hưởng với lịch
sử gia đình thông qua những điểm tương đồng nhất định, có hoặc không có ý thức.
Là một người theo chủ nghĩa kiến
tạo (constructivist), tôi biết rất rõ rằng bức tranh tưởng tượng mà tôi viết
ra này được tô màu bởi lịch sử cá nhân của tôi, rằng tôi đã xây dựng nó trên cơ
sở cộng hưởng của tôi với lịch sử của gia đình đó. Có
tôi và có họ trong câu chuyện này. Câu chuyện được lấy cảm hứng từ hai
câu chuyện của chúng tôi. Để giữ được tầm động viên của nó và không bị xem là
đe dọa, nó không nên dính líu quá nhiều vào lịch sử của gia đình. Do đó, bệnh
nhân có nhiều quyền tự do hơn để cho phép mình được đặt câu hỏi.
b/ Chúng tránh được nỗi lo lắng về việc tự tiết lộ
bởi vì, riêng với trò chơi ngỗng, chính bệnh nhân là người cung cấp nội dung, và
cũng những người khám phá lịch sử của họ, giống như công việc của các nhà nhân
học. Họ tự lập nên tốc độ cho cuộc nói chuyện và giữ im lặng những gì họ muốn
giữ im lặng. Cũng theo cách tương tự, Y. Rey gợi ý cho bệnh nhân quyền tự do đặt
một tấm thẻ trắng trên bàn cờ của trò chơi ngỗng để biểu thị sự tồn tại của một
sự kiện quan trọng trong lịch sử của họ mà họ thích giữ im lặng hơn. Họ được
yêu cầu ghi ngày tháng và để trống.
c/ Chúng có cấu trúc, phương pháp luận chặt
chẽ (là gồm 10 sự kiện, chứ không phải những biểu tượng 9 hoặc 11.1, cũng không
phải là 2…). Chúng tôi phải tuân theo các quy tắc, chúng tôi không thể tự làm bất
cứ điều gì, nhà trị liệu là người bảo đảm giữ quy tắc đó. Các vật thể nổi nằm ở
giao điểm giữa “chơi” (play - hoạt động sáng tạo tự do) và “trò chơi” (game - trò
chơi có cấu trúc, có quy luật), theo nghĩa chúng bao gồm một khuôn khổ được tạo
thành từ một vài quy luật nghiêm ngặt. Khuôn khổ này, có các khía cạnh hạn chế
của nó, cho cả về phía bệnh nhân lẫn nhà trị liệu, giúp đoan chắc và an toàn vì nó hạn
chế sự tuôn tràn và cung cấp một vật chứa đựng (khái niệm “holding” của D.
Winnicott, 1971) với sự sáng tạo mà vì thế có thể được làm một cách tự do.
Chúng tạo thành một sự hỗ trợ để trao
đổi tầm nhìn về thế giới, kinh nghiệm của các thành viên trong gia đình và đồng
kiến tạo một thực tại mới. Điều này cho phép diễn ra sự tái định dạng
nhận thức và giúp đón chịu những cảm xúc (reframing and emotional digestion).
Nó tạo sự linh hoạt và làm phong phú cho cách bệnh nhân nhìn về mọi việc. Điều
này cho phép họ nói, với tất cả sự toàn tâm của họ: "Tôi chưa bao giờ nhìn
mọi thứ từ góc độ này, tôi sẽ nghĩ về nó..." Đối với tôi, khoảnh khắc trị
liệu tuyệt vời nhất là khi bệnh nhân tự họ ngạc nhiên, giống như lần Jonas làm
một kết nối giữa hoạt động của anh ta và sự khởi đầu của bệnh tâm thần của anh
ta. Hơn nữa, như P. Caillé (2001) nói, một tầm nhìn mới khi xuất hiện, không hề
tranh chấp với phiên bản mà mọi người vốn có về vấn đề của họ, về lịch sử của họ,
bởi vì chúng thuộc về những lãnh địa khác nhau. Vì vậy, không có sự cạnh tranh
tự động nào giữa phiên bản mà họ phát triển trong phiên trị liệu và phiên bản
mà họ đã có cho đến lúc đó.
d/ Chúng đặt bệnh nhân vào một vị thế có năng
lực, vị thế của sự sáng tạo trong một không gian có tính thử nghiệm.
Một cái khung được đưa ra và bệnh nhân dệt nên tấm lưới của họ trong đó.
e/ Các vật thể nổi cho phép bạn
cùng chia sẻ
với các gia đình, những cặp đôi, những anh chị em. Thông thường người ta hay nghi
ngờ những ký ức và nhận thức của họ về câu chuyện của họ: "Liệu ta có thể
thực sự gọi nó là lạm dụng hay không?", "Sự kiện đã thực sự diễn ra
hay nó là sản phẩm của trí tưởng tượng của tôi?", "Ta đã không nằm mơ
sao?", "Lẽ nào hắn đối với ta lại có tác động như vậy sao?",
"Để nhận ra những gì tôi đã biết, cần phải có những ai khác hoặc ít nhất
là một ai đó cũng nhận ra những điều tôi đã thấy chứ." (von Foerster,
1973). Sự nhận thức cần phải được xác nhận bởi một bên thứ ba để có thể tự giải
quyết chính nó. Nhận thức không phải là một loại hành
động biệt lập. Như thể là trong trường hợp không được người khác “xác nhận”,
thì những trải nghiệm về sự kiện, và đôi khi chính sự kiện đó, sẽ không thể được
“sắp đặt” vào trong ký ức. Việc xác nhận bên ngoài bởi những anh chị em với tư
cách là những nhân chứng tham gia là rất có giá trị, thường có tác động nhiều
hơn so với nhà trị liệu vốn là người không có mặt tại thời điểm đó. Làm việc với
các anh chị em cũng cho phép có được sự "so sánh" trải nghiệm của họ về các sự việc.
Đôi khi, đối với Jonas và các anh trai của anh ấy, thật ngạc nhiên khi lưu ý rằng
cùng một sự kiện lại có thể được trải nghiệm rất khác nhau giữa họ (chẳng hạn
như cuộc ly hôn của cha mẹ được trải nghiệm như một bi kịch đối với người con
này nhưng lại như một sự giải thoát đối với một người con khác). Đôi khi, ngược
lại, cũng là điều thật ngạc nhiên khi một sự kiện có thể đã được trải nghiệm với
cùng một cảm xúc: "Tôi nghĩ rằng nó chỉ ảnh hưởng đến tôi trong gia đình, còn
anh tôi thì không bị tổn thương". Nói chung, trong giai đoạn đầu của liệu
pháp, nhu cầu cảm thấy được liên kết (được thuộc về) là điều quan trọng
trên hết tất cả các trải nghiệm chung cần được trao đổi. Chỉ về sau, khi sự an toàn
đã được thiết lập giữa họ và khi cảm giác thân thuộc đủ mạnh, họ mới có thể trở
nên tự biệt hoá
giữa họ với nhau (differentiate themselves).
f/ Đặc biệt hơn, trò chơi ngỗng
giúp bạn có thể mô
tả lại sự kiện gây sang chấn trong một câu chuyện, khiến thời gian chuyển động lại
từ chỗ nó đã dừng lại. Cách tiếp cận này không tập trung vào triệu
chứng hay sang chấn, mà tập trung vào văn hóa của nhóm trị liệu, ở ba cấp độ của môi
trường sống của con người như được mô tả bởi E. Dessoy (1993), đó là các hành vi - tương tác, niềm tin và bầu khí. Những
triệu chứng và (các) sự kiện đau buồn được đặt vào đó, trong một câu chuyện chứa
đựng chúng và thường mang lại ý nghĩa cho chúng. Ở những người có quá khứ được
đánh dấu bởi một hoặc nhiều sự kiện đặc biệt đau đớn, chúng ta thường thấy một sự
biến dạng của thời gian tính (distorsion de la temporalité), biến đổi biên niên
sử của họ. Như M. Delage (2000) đã chỉ ra rằng các hiện tượng sau đây có thể được
quan sát thấy:
Trong một số trường hợp, người
ta sẽ tránh nói về những sự kiện gây sang chấn. Nó giống như một nỗ lực để xóa
đi thành phần quá đau đớn của câu chuyện, như một lỗ hổng về thời gian (trou dans
la temporalité), mà chúng ta đã quan sát thấy trong hoàn cảnh của Jonas mà tôi
vừa đề cập. Trong trường hợp này, nếu nhà trị liệu cố gắng tiếp cận các sự kiện
sang chấn quá nhanh, bệnh nhân sẽ trở nên sợ hãi và rời xa ra.
Trong trường hợp khác, ngược lại,
người ta lại chỉ nói về điều đó. Thời gian như dừng lại ngay tại phần này của
câu chuyện, và họ dường như không thể đi tiếp. Sự kiện sang chấn được lặp đi lặp
lại hoặc thông qua triệu chứng (đau khổ, hồi tưởng…) hoặc trong một câu chuyện mang
tính chất rập khuôn, giống như một chiếc đĩa hát bị lặp (disque rayé) cứ quay đi
quay lại về một biến cố đau thương. M. White (1998) nói ra đây về một câu chuyện
bị bão hòa bởi các vấn đề (histoire saturée par le problem). Sự kiện gây sang
chấn trở thành một "nhà tổ chức" (organisateur) cho cuộc sống tinh thần
của người đó. Cuộc sống là trung tâm và cần giảm thiểu sang chấn cùng những hậu
quả của nó. Trong câu chuyện của một người, sang chấn đôi khi chấm dứt khả năng
nắm bắt tất cả những chủ đề được nảy sinh. Trong trường hợp như thế, những cách
tiếp cận của nhà trị liệu trực diện vào sang chấn sẽ càng củng cố cho cơ chế
này, góp phần làm mạnh thêm hiệu ứng đáng kinh ngạc sau sang chấn và càng thu hẹp
thêm câu chuyện cuộc đời. Với cách tiếp cận trực diện vào sang chấn, những
chuyên viên thực hành vô tình sẽ củng cố sự giam giữ của người đó trong bản sắc
của người ấy như là một “nạn nhân bất lực”, và như chúng tôi đã nói ở trên, sẽ ngăn
cản người này thực hiện việc tái kiến tạo nó.
Chúng ta cũng có thể quan sát ở
đây về một khoảng thời gian bị gián đoạn (temporalité discontinue),
bị chia nhỏ: chúng ta nghe một câu chuyện cuộc đời rất rời rạc, không có sự liền
mạch. Chỉ như một tổng hợp các sự kiện không có liên kết nhau một cách rõ ràng.
Nhờ trò chơi ngỗng, các mối
liên hệ theo trình tự thời gian được thiết lập giữa các sự kiện khác nhau trong
lịch sử của gia đình cũng như của các thế hệ trước, điều này có thể làm cho
(các) sự kiện đau đớn trong lịch sử được liên kết lại, để thiết lập mối liên hệ
giữa các sự kiện khác nhau này, và giữa thời kỳ trước với giai đoạn sau của sự
kiện. Vì vậy, việc hoá giải những tổn thương không phải là kìm nén nó, cũng
không phải khuếch đại nó, mà là cho đi (Nguyên văn: “Donc, digérer le
traumatisme, ce n’est ni le refouler, ni l’amplifier, mais bien donner du”)
Ý NGHĨA VÀ SỰ LIÊN HỆ
Vì thế, chúng tôi thấy lý do tại
sao điều quan trọng là không nên sử dụng những phương pháp tiếp cận trực diện và
“theo kiểu ống dẫn” đối với các sang chấn (Nguyên văn: “une approche frontale
et tubulaire du traumatisme”). Sau khi được kết nối với các sự kiện khác của
câu chuyện, nó sẽ mất đi trạng thái chấn thương để trở thành một sự kiện trong
số những sự kiện khác, tất nhiên sẽ gây lay động và đau đớn. Sự kiện gây sang
chấn, sau đó, có thể trở thành một ký ức, ngay cả khi đó là một ký ức tồi tệ.
P. Ricoeur nói rằng làm việc về
một đời người (le travail d’une vie) là khả năng kể một câu chuyện mạch lạc và
có thể chấp nhận được về bản thân người đó. "Khi tôi có thể tự kể câu chuyện
của cuộc đời mình, tôi xây dựng nên con người của mình" là khái niệm về một
bản sắc tự
thuật (bản sắc được xây dựng từ cách kể chuyện) (F: d’identité
narrative; E: narrative identity). Điều quan trọng là có thể kể ra với chính
mình. P. Caillé, trong bài viết của mình – De
l’intérêt de pouvoir bien se raconter (Về sự quan tâm đến khả năng liên hệ
tốt), viết rằng một tự truyện (le récit autobiographique) có một chức năng kép:
Một là hỗ trợ hình thành bản sắc: Chính
là bằng cách tự nói với bản thân rằng tôi đã biết mình là ai, mà tôi tạo cho
mình một sự nhất quán và mạch lạc, và rằng tôi có thể mang lại ý nghĩa cho cuộc
sống của mình.
Hai là chức năng nhận thức: Câu chuyện
này là một khuôn khổ để giải thích về thế giới sống xung quanh, để diễn giải về
các sự kiện.
Như tác giả này đã chỉ ra, sự tồn
tại của một lịch sử đau thương có thể gây khó khăn cho việc xây dựng một câu
chuyện cuộc đời có tính thích ứng.
B. Cyrulnik (1999) có thể nói rằng
liệu pháp tâm lý là một công việc làm tường thuật, một việc làm theo kiểu “lịch
sử hóa” (historicisation). Cách kể chuyện đặc biệt giúp bạn có thể lồng ghép sự
kiện gây sang chấn vào trong một câu chuyện, nơi mà trước đó sự kiện đó đã bị
cô lập, tách riêng ra với những phần còn lại. Nếu có người khác đang lắng nghe
câu chuyện đời của tôi chấp nhận phần “đen tối” này của tôi, thì khi đó, tôi có
thể dung hòa được hai phần ấy trong con người tôi. Như B. Cyrulnik nói, "thành
phần cái tôi được xã hội chấp nhận sau cùng cũng dung nạp được phần cái tôi bí
mật, không được liên hệ". Một khi sự kiện gây sang chấn được kể lại trong
một câu chuyện, người đó có thể tái dựng lại nó cho phù hợp vì đã có thể tác động
lên nó và không còn đau khổ vì nó nữa, đây là khái niệm "sự biến hình của sang
chấn" (metamorphosis of the trauma) của B. Cyrulnik. Người này sau đó sẽ bớt
võ đoán hơn về câu chuyện của mình. Câu chuyện đời khi ấy có thể trở nên năng động
trở lại, có thể phát triển để tích hợp những dữ liệu mới từ sự tồn tại.
Sự hiện diện của một nhà trị liệu
giúp bạn có thể kiềm chế những cơn bộc phát cảm xúc, giống như một “chiếc phong
bì tinh thần” (enveloppe psychique), giúp hỗ trợ cho những hoạt động biểu thị
và liên kết. Cảm xúc không được làm tê liệt công việc “chăm chút cho tâm trí” (F:
le travail d’élaboration psychique; E:psychic elaboration), một việc mà nhà trị
liệu sẽ đảm nhận nó. Đôi khi, như chúng ta đã thấy, nhà trị liệu sẽ phải làm chậm
lại câu chuyện gây sang chấn để nó không làm tràn khả năng tiếp nhận của tâm trí.
Nhà trị liệu sẽ quan tâm đến việc tiếp cận nó dần dần để, vào lúc này, việc kể
lại vết thương lòng có thể giúp người kể có thể kiểm soát được cảm xúc, mà khi ở
vào thời điểm xảy ra cú sốc chấn thương nó vốn đã khiến người đó cảm thấy choáng
ngợp. Từng chút, từng chút một, những tổn thương sau đó có thể được trải nghiệm
và thể hiện, và đồng thời cũng được tích hợp vào trong những phần còn lại của
câu chuyện.
Vào cuối phiên trị liệu, sau
khi xâu chuỗi lại câu chuyện của họ, cho dù có sử dụng vật thể nổi hay không, các
bệnh nhân của chúng tôi có thể biến cuộc đời họ thành một câu chuyện có tính hỗ
trợ cho họ, một câu chuyện mà tất nhiên vẫn đang tiếp tục được kể lại.
Ghi chú: Văn bản được viết dựa trên một
hội nghị được tổ chức tại Liège vào ngày 14/10/2005 như một phần trong khuôn khổ
nội dung về "Nỗi đau vô hình/không thể nói ra trong di sản" (La
douleur invisible/indicible en heritage) do Parole d'Enfants tổ chức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét