Thứ Bảy, 31 tháng 7, 2021

9 DẦU HIỆU CỦA MỐI QUAN HỆ GẮN KẾT GÂY SANG CHẤN: “GẮN KẾT VỚI KẺ LẠM DỤNG”

"9 Signs of Traumatic Bonding: "Bonded to the abuser"

Tác giả: TAMARA HILL - MS, NCC, CCTP, LPC

Nguồn: PsychCentral - 8/9/2015

Người dịch: TRẦN THỊ THU VÂN – Thạc sĩ Tâm lý, Giảng viên Bộ môn Tâm  lý, Khoa KHXHNV Đại học Văn Hiến Tp.HCM, Chuyên viên tâm lý trị liệu, Thành viên CLB Trăng Non


Bạn biết gì về lạm dụng trẻ em? Bạn nên biết gì về lạm dụng trẻ em? Có phải bạn đã biết rằng lạm dụng là một trong những sự kiện gây sang chấn nhất mà trẻ nhỏ trải qua? Đối với nhiều trẻ nhỏ, lạm dụng không được mong đợi và khả năng ứng phó của trẻ là không đủ. Sang chấn thường được định nghĩa là một sự kiện kinh khủng, quá sức so với khả năng ứng phó của trẻ (National Child Traumatic Stress Netword, 2015). Việc mất khả năng ứng phó thường dẫn đến những khó khăn về sức khỏe tâm thần như lo âu, trầm cảm và thậm chí là rối loạn nhân cách như rối loạn nhân cách ranh giới, ái kỷ, hoặc nhân cách né tránh. Hơn thế nữa, sang chấn có thể ngăn cản khả năng phát triển và duy trì những mối quan hệ lành mạnh của chúng ta (công việc, hôn nhân, bạn bè, gia đình) và cả những tương tác xã hội thích hợp. Sang chấn cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình phát triển suốt cuộc đời và dẫn đến việc không ổn định về mặt cảm xúc (tình trạng thay đổi về cảm xúc hoặc tâm trạng).

Bài viết này sẽ khám phá một cách tóm lược về sự “Gắn kết gây sang chấn” (Traumatic Bonding) và những dấu hiệu nhận ra sự gắn kết gây sang chấn với kẻ lạm dụng. Khi làm việc với gia đình, tôi (tác giả) thường khuyến khích họ nhận ra những loại quan hệ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ nhỏ, vị thành niên hoặc người lớn từng bị sang chấn. Chính chất lượng của mối quan hệ mới có thể làm nên hoặc chấm dứt việc một cá nhân bị sang chấn. Chúng ta phải hiểu rằng ở mỗi nạn nhân bị sang chấn, một phần họ có sức chống chịu và sự mạnh mẽ, trong khi có một phần khác lại cần đến mức độ thương cảm, thấu hiểu, nhạy cảm, đồng cảm và sự an ủi.

Điều quan trọng cần hiểu là nhiều yếu tố, cả tích cực lẫn tiêu cực, đã xảy ra và góp phần vào sự hình thành sang chấn này. Những yếu tố nguy cơ này vừa có thể bảo vệ chúng ta khỏi sang chấn lại vừa có thể đẩy chúng ta hìm sâu hơn vào trong nó. Một vài trong số những yếu tố đó bao gồm:

Những yếu tố nguy cơ

  • Tình trạng kinh tế xã hội thấp
  • Lạm dụng chất
  • Suy nhược về sức khỏe tinh thần hoặc khả năng phản ứng cảm xúc
  • Khó khăn về tài chính
  • Phong cách ứng phó nghèo nàn
  • Những phản ứng khác với sang chấn
  • Không có hệ thống hỗ trợ
  • Thiếu công ăn việc làm
  • Bị bắt nạt hoặc quấy rối
  • Hoàn cảnh sống có nhiều khả năng tiếp xúc với sang chấn
  • Lòng tự tôn thấp
  • Thiếu bản sắc
  • Bạo lực hoặc xâm hại trong gia đình
  • Trình độ học vấn kém
  • Vô gia cư

Những yếu tố nguy cơ kết hợp với nhau có thể kích hoạt sang chấn phức hợp (complex trauma) như một trẻ nhỏ chứng kiến cha bạo hành mẹ, đang xoay trở trong tình trạng vô gia cư, thu nhập thấp, trầm cảm, lo âu, và cha mẹ nghiện chất. Những yếu tố nguy cơ này có thể tạo ra tình huống phức tạp đòi hỏi những hỗ trợ mang tính trị liệu trong nhiều tháng đến nhiều năm. Nhưng những yếu tố bảo vệ sau đây có thể giúp xây dựng nền tảng của sức chống chịu:

Những yếu tố bảo vệ:

  • Hệ thống hỗ trợ
  • Ổn định về tài chính
  • Sức khỏe cảm xúc và tâm lý tốt
  • Kỹ năng ứng phó tích cực
  • Có sự kết nối với cộng đồng như trường học, nhà thờ và các nhóm hỗ trợ khác
  • Kết nối với gia đình và xã hội 
  • Công việc làm
  • Kỹ năng giải quyết vấn đề

Mặc dù có tất cả những yếu tố này, lĩnh vực tâm lý lâm sàng tiếp tục nỗ lực phân tích tại sao một số trường hợp trẻ em bị xâm hại nghiêm trọng lại gặp khó khăn trong việc cắt đứt với người xâm hại và lãng quên họ đi. Một số trẻ khác, thật khó tin là trẻ tiếp tục khao khát sự chăm sóc và yêu thương của những cha mẹ đã ngược đãi mình, thậm chí rất lâu sau khi trẻ được chuyển đi ra khỏi môi trường bị lạm dụng. Đó là lý do tại sao AmyBaker và Mel Schneiderman đã tìm hiểu một cách khéo léo vấn đề này thông qua câu chuyện của những người sống sót. Và đây chính là một chủ đề quan trọng cần được phân tích.

Trong công việc của tôi, tôi có hơn 500 báo cáo về trẻ bị lạm dụng, đến nay cũng có thể gọi là những báo cáo trên đường dây nóng bảo vệ trẻ em (childline). Ở Hoa Kỳ, chúng tôi thu thập ba triệu (3.000.000) những báo cáo như thế mỗi năm, và đất nước này được xem là một kỷ lục tồi tệ nhất trong những quốc gia công nghiệp, theo trang mạng childhelp.org. Đáng sợ hơn, mỗi báo cáo đó lại chỉ được xem xét trong 10 giây. Câu hỏi đặt ra là: làm sao để chúng ta có thể hiểu được những vấn đề tinh thần và cảm xúc nào ở người lớn lại có thể khiến họ ngược đãi chính con của mình, và những học thuyết gắn bó nào có thể giúp chúng ta phân tích những kết nối không lành mạnh đã dẫn đến việc ngược đãi đó? Trong một quyển sách, một người lớn tên Peter đã kể lại câu chuyện bị cha hành hạ về thể xác, anh ấy nhận những trận đánh liên hồi không thể thở được từ người cha khi ông say. Với mỗi cú đánh bằng dây thắt lưng, Peter nhớ lại, “cơ thể tôi bị rung lắc và giật mạnh như thể tôi là một con búp bê giẻ rách bị tung ném bởi một con chó dại”. Và mặc dù điều đó chỉ xảy ra khi cha mình say, Peter giải thích, bạo hành như vậy dường như đã trở nên “bình thường đối với tôi. Đó là những gì cha mẹ đã làm với tôi”.

Những “gắn kết” như vậy được cho là gắn kết gây sang chấn, có thể xảy ra khi một trẻ nhỏ trải nghiệm những giai đoạn tích cực xen kẽ với những giai đoạn lạm dụng. Những tác giả giải thích, bằng những trải nghiệm tích cực và cực kỳ tiêu cực từ cha mẹ, trẻ nhỏ có thể trở nên đồng phụ thuộc (co-dependent). Nhưng Baker và Schneiderman đã chỉ ra rằng, mặc dù họ so sánh điều này với tình huống bắt làm con tin (Vd. Hội chứng Stockholm – ND), trẻ nhỏ trong trường hợp này khác với một con tin thật sự, trẻ nhỏ có mối quan hệ chăm sóc tồn tại từ trước với người lạm dụng. Vì vậy, mặc dù nhiều người trong chúng ta không thể hiểu việc trẻ nhỏ gắn kết với một người như vậy, thật khó để tách ra khỏi một người lớn vừa chăm sóc kết hợp với bạo hành.

Có những dấu hiệu về hành vi và cảm xúc quan trọng được biểu hiện để chúng ta có thể nhận biết những cá nhân đã gắn kết với người lạm dụng họ. Một vài dấu hiệu về hành vi và cảm xúc có thể được nêu dưới đây nhưng không nhất thiết chỉ giới hạn như thế: 

1. Đồng nhất hoá quá mức (overidentifying) với kẻ lạm dụng: một vài cá nhân chịu đựng sự xâm hại trong thời gian dài thường chứa đựng những cảm xúc mâu thuẫn. Có những lúc một người bị lạm dụng có thể ghét người đã lạm dụng mình và ngay sau đó có thể tuyên bố hoặc làm những điều khiến mối quan hệ trở nên tốt hơn. Ví dụ một trẻ nhỏ bị lạm dụng về mặt cảm xúc có thể tuyên bố “con ghét chú vì chú đã làm điều đó với con” và sau đó lại nói “chú Tim hay đùa giỡn và xem phim với con vào thứ bảy.” Hai cách nói khác nhau này thường làm người ngoài cuộc lúng túng. Đứa trẻ bị lạm dụng khác có thể nói “chú Tim và con rất giống nhau bởi vì con với chú thích đồ ăn giống nhau” hoặc “Chú Tim và con đã khóc khi cùng nhau xem phim Titanic lần đầu”

2.  Cảm thấy mắc nợ kẻ lạm dụng: Một vài người bị lạm dụng có thể phát triển cảm giác biết ơn về những gì người lạm dụng đã làm cho họ. Ví dụ, nếu một thiếu nữ đã từng vô gia cư và được đưa đến nhiều nơi nuôi dưỡng nhưng người ngược đãi đã nhận cô gái và đối xử tốt với cô trước khi ngược đãi, cô ấy có thể cảm thấy nợ người ngược đãi mình điều gì đó. Những vị thành niên bị ngược đãi nghiêm trọng đã từng nói với tôi rằng người ngược đãi “yêu tôi”.

3. Cảm thấy “họ cần tôi”: một vài người bị lạm dụng phát triển cảm xúc gắn kết với kẻ lạm dụng khiến họ cảm thấy đôi lúc họ nợ kẻ lạm dụng điều gì đó. Ví dụ, một người từng bị lạm dụng về thể chất, cảm xúc, tình dục có thể nhận ra bản thân mình cảm thấy có lỗi vì những khó khăn về cảm xúc và tâm lý của kẻ lạm dụng và phát triển sự thấu cảm hoặc trắc ẩn với kẻ lạm dụng. Điều này có thể dẫn đến người bị lạm dụng cảm thấy mắc nợ người lạm dụng và tận tụy “giúp họ tốt hơn”. Hành vi này có thể được thấy trong các mối quan hệ lãng mạn mà người bị lạm dụng trở nên bảo vệ quá mức về mặt cảm xúc cho kẻ lạm dụng, họ cũng chịu đựng kẻ lạm dụng này để làm hài lòng kẻ lạm dụng.

4. Giải thích hầu hết mọi chuyện: Hành vi điển hình của một số người bị lạm dụng là biện hộ cho kẻ lạm dụng. Kẻ lạm dụng không gây tổn thương họ bởi vì họ tệ mà bởi vì “Tôi xứng đáng với điều đó. Hôm đó tôi đã không tốt.” hay bởi vì “anh ấy quá ghen thôi, tôi cũng vậy”. Điều này thường là chỉ báo cho thấy người bị lạm dụng đang gắn kết với kẻ lạm dụng.

5. Bảo vệ kẻ lạm dụng: Hầu hết chúng ta bỏ chạy khỏi những người lạm dụng mình. Chúng ta không muốn trải nghiệm nỗi đau và không muốn cảm thấy xấu hổ khi bị lạm dụng.  Nhưng đôi khi bởi vì kẻ lạm dụng thường lúng túng về cảm xúc và tinh thần và là sản phẩm của môi trường sống loạn chức năng, người bị lạm dụng có thể phát triển một sự kết nối mà họ cảm thấy cần thiết để bảo vệ kẻ lạm dụng. Đôi khi người bị lạm dụng có thể đứng lên vì kẻ lạm dụng và chống lại những người thực sự quan tâm đến họ. Một cô gái tuổi dậy thì từng hẹn hò với người bạn trai lạm dụng mình dường như chống lại mẹ mình khi bà nỗ lực nhấn mạnh những hành vi và tính chất tiêu cực của người bạn trai này.

6. Cho phép sự lạm dụng tiếp tục để làm “hài lòng” kẻ lạm dụng: Một vài cá nhân, đặc biệt là những người bị thao túng và lạm dụng tình dục sẽ cho phép kẻ lạm dụng tiếp tục “để vấn đề sang một bên” hoặc “làm hài lòng anh ta/cô ta”. Nạn nhân trở nên quá yếu ớt không thể tự bảo vệ hoặc tự đứng lên đến nỗi họ phải nhượng bộ. Hoặc những người khác thì sợ hãi không dám bỏ đi và ở trong tình trạng đó chừng nào mà họ còn có thể. Trong suốt hành trình 8 năm làm lâm sàng của tôi, một trẻ nhỏ đã nói với tôi “ông ấy muốn điều gì đó tốt đẹp cho con và con đưa điều đó cho ông ấy bởi vì ông ấy xứng đáng. Bố luôn đi làm vì chúng tôi và là một người làm việc chăm chỉ.”

7. Đội nhiều “mũ” (wearing multiple hats): Do phụ thuộc vào tình trạng bất ổn định về tâm lý và cảm xúc của kẻ lạm dụng, một người bị lạm dụng có thể phải đóng nhiều vai trò trong cuộc sống của kẻ lạm dụng. Ví dụ, một trẻ nhỏ từng bị ngược đãi về thể chất và bị mắng chửi bởi một người cha nghiện chất cùng với 5 đứa trẻ khác có thể bắt đầu tham gia những vai trò: “người chăm sóc” với các em, “người thầy” với các em nhỏ khi làm bài tập về nhà, “người đại diện cho cha mẹ”, “vú em”, “nhà trị liệu” với kẻ ngược đãi, vv… Tham gia nhiều vai trò thường là kết quả của việc thiếu bản sắc và cảm thấy quá sức. Nhiều trẻ nhỏ sớm mất tuổi thơ và kết thúc sự phát triển khi bước vào tuổi trưởng thành với các tình trạng trầm cảm, lo âu và tự sát.

8. Che đậy những cảm xúc tiêu cực khi có sự hiện diện của kẻ lạm dụng: Nếu bạn buồn và kẻ lạm dụng vui, bạn che dấu nỗi buồn của mình. Nếu bạn vui và kẻ lạm dụng đang trầm uất, bạn che dấu niềm vui của mình. Nếu bạn cảm thấy thất vọng và muốn chết, nhưng kẻ lạm dụng đang đi dạo quanh nhà hát hò và chơi nhạc, bạn hầu như sẽ dấu kín cảm xúc của mình để cùng “hòa vào niềm vui đó”. Tôi từng làm việc với nhiều trẻ em và vị thành niên thường rơi vào dạng này. Một thiếu nữ 17 tuổi, sợ quay lại môi trường bị lạm dụng cảm xúc, đã nói với tôi trong phiên cuối cùng “Tôi đang khóc vì mất mát của bạn tôi nhưng ngay khi tôi nghe tiếng Gram đang lên cầu thang và hát, tôi lau sạch nước mắt và mỉm cười. Đến bao giờ tôi mới có thể cảm nhận được những gì tôi muốn cảm thấy?”

9. Khao khát tình yêu thương dù bị tổn thương: Hầu hết nạn nhân bị lạm dụng khao khát tình yêu và tình cảm, đôi khi tình cảm đó đến từ kẻ lạm dụng mình. Như thể hầu hết những người này khao khát tình yêu và tình cảm của kẻ lạm dụng nhiều đến mức họ sẵn sàng làm mọi thứ để có được nó. Một thân chủ trước đây đã nói rằng cô ta sẽ tự sát nếu người bạn trai đã quen 4 năm nói cô làm điều đó. Hãy suy nghĩ về những kẻ đánh bom tự sát? Động lực tự sát của họ là gì. Động lực ở đây thường là sự cống hiến vì tôn giáo hoặc có thể được chấp nhận bởi những người hỗ trợ hành vi đánh bom tự sát.

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...