Chủ Nhật, 11 tháng 7, 2021

PHÂN TÍCH TƯƠNG GIAO (TA) - Phần 2

Tài liệu Tập huấn của CLB Trăng Non

Người dịch và tổng hợp: BS. NGUYỄN MINH TIẾN

Eric Bern (1910 - 1970)


ĐỘNG CƠ (MOTIVATION)

Theo quan điểm T.A., mỗi cá nhân có hai loại nhu cầu chính yếu: nhu cầu sinh lý và nhu cầu tâm lý. Nhu cầu sinh lý bao gồm thực phẩm, nước, không khí… là những nhu cầu cần thiết cho sự tồn tại về thể chất. Các nhu cầu tâm lý theo cách sử dụng thuật ngữ của trường phái T.A. bao gồm:

-          Stimulus Hunger & Strokes

-          Structure Hunger

-          Position Hunger

Các thuật ngữ này được sử dụng với tính đặc thù riêng cho trường phái T.A., không thể giữ nguyên nghĩa nếu dịch sang đúng những từ tương đương trong tiếng Việt. Ở đây tạm dịch là Nhu cầu tìm kiếm những tương tác kích thích, Nhu cầu cấu trúc thời gian sống và Nhu cầu về vị thế sống.

Nhu cầu tìm kiếm những tương tác kích thích

Berne tin rằng tất cả mọi người đều có nhu cầu cơ bản nhận được những kích thích từ những người xung quanh, hay nói cách khác là cần được người khác thừa nhận. Những kích thích (stimulation) hoặc thừa nhận (recognition) ấy có thể được biểu hiện dưới hình thức những sự lưu tâm về thể chất hoặc về tâm lý, và Berne gọi những hình thức tương tác như vậy là stroke. “Stroke” là một từ trong tiếng Anh có nhiều nghĩa; theo nghĩa riêng được Berne nêu ra thì đó là: Một hình thức thừa nhận được thực hiện bởi một người này đối với một người kia, thông qua sự lưu tâm đến nhau về mặt thể chất hoặc tâm lý (trong bài này tạm dịch là “tương tác kích thích”). “Những công trình của René Spitz và H.F. Harlow cho thấy rằng, nếu không nhận được đầy đủ những tương tác như vậy, các lòai sinh vật, cả người lẫn khỉ, đều sẽ có biểu hiện chậm tăng trưởng về mọi lĩnh vực: thể chất, tình cảm và tâm thần” (Kambly, 1971). Lúc ban đầu, nhu cầu này được thỏa mãn qua các tương tác, kích thích về cơ thể (physical stroking). Khi con người trưởng thành, các tương tác kích thích về cơ thể sẽ được thay thế dần bằng các tương tác kích thích có tính biểu tượng (symbolic strokes), dưới hình thức lời nói, cử điệu và các giao tiếp phi ngôn ngữ khác.

Các tương tác kích thích có thể tích cực hoặc tiêu cực, có thể có điều kiện hoặc không có điều kiện. Các tương tác kích thích có điều kiện, dù tích cực hay tiêu cực, đều là để đáp ứng với các hành động (for doing). Ví dụ, bố mẹ khen thưởng con khi con làm việc tốt (tích cực) hoặc đánh con khi nó không vâng lời (tiêu cực). Cả hai trường hợp đều tùy thuộc vào việc đương sự đã làm một việc gì đó. Trong khi đó, các tương tác kích thích không điều kiện, thì lại có liên quan đến các trạng thái, tính chất (for being). Ví dụ, “Tôi yêu bạn vì bạn là bạn” (tích cực) hoặc “Tôi không thích bạn vì bạn là bạn” (tiêu cực). Thậm chí những tương tác kích thích tiêu cực có thể gây đau khổ cho đương sự, nhưng nếu trong môi trường sống hiện chỉ có duy nhất kiểu thừa nhận này thì nguời ta vẫn tìm kiếm chúng còn hơn là chẳng nhận được một tương tác kích thích nào cả.

Những tương tác kích thích cũng có thể pha trộn nhiều hình thức. Ví dụ trong câu nói sau “Này bạn, mọi thứ có vẻ tốt đấy. Tôi chỉ có điều là không thể tin nổi bạn đã làm việc này” cho thấy một lọai tương tác kích thích có phần công khai mang tính tích cực, nhưng vế thứ hai của câu thì lại ngầm chứa đựng một tương tác kích thích tiêu cực. Vì thế đây là lọai tương tác kích thích “hỗn hợp” hay còn gọi là tương tác kích thích “vặn vẹo”. Ý định thật sự của lọai tương tác kích thích này thường là tiêu cực.

Mỗi cá nhân đều học được cách thức tìm kiếm các lọai tương tác kích thích mà bản thân mình đã từng kỳ vọng khi còn bé. Một đứa trẻ chỉ nhận được những tương tác kích thích tiêu cực và có điều kiện, về sau khi lớn lên vẫn sẽ tìm kiếm các lọai tương tác kích thích này với lòng tin rằng chúng là những tương tác kích thích duy nhất sẵn có trên đời. Một người có những động cơ sống theo kiểu như vậy thường sẽ phát triển nên những hành vi mà người khác gọi là hành vi không thích nghi. Một đứa trẻ nhận được những tương tác kích thích tích cực và không điều kiện sẽ có cơ hội tốt hơn rất nhiều để trở thành một người trưởng thành với chức năng sống đầy đủ. Dù trong bất kỳ tình huống nào, sự tìm kiếm các tương tác kích thích (nghĩa là tìm kiếm những sự lưu tâm và thừa nhận từ người khác) vẫn là một động lực thúc đẩy quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người.

Nhu cầu cấu trúc thời gian sống

“Nhu cầu cấu trúc thời gian sống tạo ra tình thế lưỡng nan của một con người trong suốt cả cuộc đời – những gì phải làm trong 24 giờ mỗi này, 168 giờ mỗi tuần” (Holland, 1973). Nhu cầu cấu trúc thời gian sống chính là nhu cầu của một con người cần sử dụng thời gian sống để có thể nhận được tối đa các tương tác kích thích cần thiết. “Con người gần như sẵn lòng bằng mọi giá để thời gian sống của mình có thể được cấu trúc theo đúng nhu cầu, bởi vì ít có ai có thể tự động cấu trúc thời gian sống của mình trong một thời gian dài” (Berne, 1966). Cách thức con người cấu trúc thời gian sống của mình tùy thuộc vào mức độ thoải mái của những cảm xúc mà họ nhận được. Một người e ngại các mối quan hệ thân tình sẽ có mức đầu tư tối thiểu vào các quan hệ với người khác và sẽ chấp nhận việc ít có các tương tác kích thích (Kambly, 1971). Trong khi đó, một người không ngại có những mối quan hệ thân tình nói chung sẽ có thể nhận được một số lượng lớn những tương tác kích thích tích cực. Dù trong trường hợp nào, con người vẫn tìm cách cấu trúc thời gian của mình để có thể giảm thiểu mức độ nguy cơ và sao cho họ cảm thấy thoải mái nhất. Có tất cả 6 cách thức mà con người cấu trúc thời gian sống của họ. Chúng được liệt kê dưới đây theo trình tự từ mức độ “ít nguy cơ nhất” cho đến mức độ “nguy cơ cao nhất”:

  1. Rút lui, tự cô lập (withdrawal)

Những người không thể chấp nhận bất kỳ nguy cơ nào có thể sẽ rút lui về cuộc sống cô lập với chính bản thân mình. Họ có thể sống tách biệt như một ẩn sĩ, hoặc đơn giản chỉ rút lui về mặt tâm lý. Những người này chủ yếu nhận những tương tác kích thích thông qua huyễn tưởng (fantasy) hoặc “tự thọai” (self-talk). Sự tưởng thưởng (pay-off) là ở mức thấp nhất.

  1. Nghi thức (rituals)

Nghi thức là những cách thức ứng xử được cấu trúc chặt chẽ nhằm nhận được những tương tác kích thích. Nghi thức có thể biểu hiện dưới dạng những phép ứng xử lịch sự giữa người này và người khác, cho phép những người này nhận được những tương tác kích thích mà không cần có sự đầu tư thực sự nào cả. Ví dụ khi hai người gặp nhau chào hỏi xã giao, họ đều có thể nhận được những kích thích, nhưng chẳng ai trong số họ bị “mất năng lượng” để đầu tư vào việc này. Giá trị của các tương tác kích thích là không cao và các tương giao (transaction) ở mức độ này sẽ không xảy ra lâu.

  1. Tiêu khiển, tán gẫu (pastimes)

Cấu trúc thời gian sống theo kiểu tiêu khiển, tán gẫu có những nội dung rộng hơn những nghi thức. Chúng bao gồm những cuộc nói chuyện, tán gẫu không có mục đích. Các chủ đề như con cái, thể thao, xe cộ, làm vườn… là những chủ đề dành để tán gẫu. Việc sử dụng các chủ đề bên ngòai cho phép các cá nhân tương tác với nhau nhưng không nhận nhiều nguy cơ cho bản thân.

  1. Các họat động (activities)

Một họat động thường là một công việc hoặc một hành vi có mục đích. Khi thực hiện một họat động, con người dựng lên một tình huống sao cho việc hòan tất họat động ấy sẽ mang lại cho bản thân mình những tương tác kích thích mà họ cần đến. Thậm chí, có những người trở nên “nghiện làm việc” để nhận được những tương tác kích thích mà mình mong muốn.

  1. Trò chơi (games)

Cấu trúc thời gian sống theo kiểu “Trò chơi” là cách được viết ra nhiều nhất trong các tác phẩm của trường phái T.A.; đặc biệt là trong quyển Games People Play của Eric Berne – nói đến phần lớn các loại hoạt động xã hội của con người. Theo cách dùng thuật ngữ của T.A., “trò chơi” bao gồm một loạt những tương giao có trình tự giữa hai con người, mang lại những phần tưởng thưởng bên trong những tương tác kích thích được trao đổi qua lại giữa hai đối tác. “Phần thưởng của một trò chơi chính là một cảm xúc quen thuộc kéo dài, hoặc dưới dạng trầm uất, giận dữ, hụt hẫng, ganh ghét…, hoặc dưới dạng chinh phục, chiến thắng, chính nghĩa… mà con người mong muốn nhận được” (Kambly, 1971). Cái cảm xúc mà con người tìm kiếm được gọi là “cây vợt” của họ, hay là phong cách sống cơ bản của họ. Phần thưởng có được từ trò chơi thường được gọi theo cách ẩn dụ là “phiếu mua hàng” bởi vì những người chơi game cũng thâu thập chúng giống như người ta hay thâu thập những phiếu mua hàng. Những ai quen sử dụng “cây-vợt-ganh-ghét” sẽ tham gia vào những trò chơi nào mang lại phần thưởng là tạo cơ hội cho họ ganh ghét. Những trò chơi có khi chỉ có hai người tham dự, và cả hai đều có thể nhận được những phần thưởng mà họ mong muốn. Theo quan điểm T.A., trong trò chơi không có “người thua”.

  1. Quan hệ mật thiết (intimacy)

Cấu trúc thời gian sống theo kiểu quan hệ mật thiết là cách có khả năng mang lại sự tưởng thưởng cao nhất, nhưng đồng thời cũng hàm chứa những nguy cơ cao nhất. Nói theo Berne (1966) “Quan hệ mật thiết là một sự trao đổi những biểu lộ về mặt cảm xúc đã được lập trình bên trong mà không có tính chất của trò chơi” (Intimacy is a game-free exchange of internally-programmed affective expressions). Chỉ những ai có khả năng cởi mở và chân thành với nhau mới có thể bước vào những mối quan hệ mật thiết.

Mặc dù hầu hết mọi người, ở một chừng mực nào đó, đều sử dụng đến cả 6 lọai phương thức cấu trúc thời gian sống nêu trên, vấn đề rắc rối có thể xảy đến khi họ sử dụng quá mức một phương thức nào đó mà bỏ qua không thực hiện những cách thức khác.

Nhu cầu về vị thế sống

Động cơ thúc đẩy thứ ba về mặt tâm lý là nhu cầu của mỗi cá nhân trong việc lựa chọn và xác lập cho mình một vị thế sống (life position). Nhu cầu này có liên quan đến “cây vợt” của mỗi người (tức là phong cách sống cơ bản của người ấy), kịch bản sống (life script) và kịch bản đối lập (counter-script) của người ấy. Các tương tác kích thích (stroke) nhận được từ thuở ấu thời sẽ ảnh hưởng đến vị thế sống, kịch bản sống, kịch bản đối lập, phong cách sống cơ bản và các trò chơi mà người ấy chấp nhận ở tuổi trưởng thành. Nhu cầu về vị thế sống là nhu cầu để ứng xử sao cho có thể liên tục tái xác nhận những lựa chọn này. Để hiểu được nhu cầu về vị thế sống như một loại động cơ của con người, chúng ta phải xem xét đến sự tạo lập của vị thế sống, kịch bản sống và kịch bản đối lập.

Vị thế sống

Cách thức mà con người cảm nhận về chính mình và về người khác được phản ảnh trong vị thế sống mà họ chọn lựa. Berne cho rằng con người đã có những quyết định chọn lựa này từ rất sớm trong đời, dựa trên những nhận thức của người ấy về thế giới xung quanh. “Số phận một con người được quyết định bởi những gì diễn ra bên trong trí não khi người ấy đương đầu với những gì xảy ra ở môi trường bên ngoài” (Berne, 1972). Mỗi cá nhân sẽ lựa chọn cho mình một trong bốn loại vị thế sống sau đây:

  1. I’m OK – You’re OK

Đây là vị thế sống tối ưu và thường được gọi là vị thế sống ở mức phát triển cao (evolutionary position) (Kambly, 1971). Đây là vị thế sống cơ bản của lòng tin mà tất cả mọi người đều có được ngay từ buổi đầu của cuộc sống. Vì là vị thế sống tốt nhất cho một cuộc sống có ý nghĩa, đây chính là vị thế sống được mong muốn ở tất cả mọi người. Tuy vậy, đây chính là vị thế sống khó được duy trì ổn định nhất. Berne cho rằng, trừ khi vị thế này được chấp nhận ngay từ đầu đời, người ta sẽ rất khó để gìn giữ nó lâu hơn trong đời. Ông mô tả nó như là “vị thế của những hoàng tử, những anh hùng và những công nương” (Berne, 1972).

  1. I’m OK – You’re not OK

Đây là lọai vị thế “paranoid”, còn gọi là vị thế gây biến đổi (revolutionary position) (Kambly, 1971). Harris (1969) cho rằng vị thế này được phát sinh như một phản ứng quá mức đối với cảm nhận về bản thân đang ở vị thế “I’m not OK”. Rất khó cho những ai chấp nhận vị thế sống này mà có thể khách quan đối với bản thân mình và người khác. Harris (1969) cũng cho rằng những người ở vị thế sống này rất dễ trôi dạt vào những hành vi tội phạm và vây xung quanh mình bằng những người khác chỉ biết vâng dạ (yes-men) để nhận lấy những tương tác kích thích. Thậm chí những tương tác kích thích này cũng không đáng tin cậy, bởi vì những cá nhân này không thực sự tin rằng có ai đó là “OK”.

  1. I’m not OK – You’re OK

Kambly (1971) gọi đây là vị thế chuyển giao quyền lực (devolutionary position) và xem đây là vị thế được nhiều người lựa chọn nhất. Harris (1969) khẳng định rằng đây chính là vị thế sống thường được áp đặt lên trên trẻ em, và Berne (1972) đã mô tả nó như là sự tự hạ thấp của vị thế trầm cảm (depressive position). Bởi vì những người chấp nhận vị thế này thường xuyên thấy mình không có giá trị, họ phải thường xuyên đi tìm những tương tác kích thích. Điều này khiến họ phải sống chìu theo ý của mọi người. Nhu cầu thường xuyên phải làm vui lòng người khác thường dẫn đến một cuộc sống hữu ích, nhưng không hạnh phúc. Do bị áp lực thường xuyên, vị thế này thường đưa đến trầm cảm (James & Jongeward, 1971).

  1. I’m not OK – You’re not OK

Đây được xem là vị thế vô dụng hoặc vị thế “cuốn ngược” (obvolutionary position) (Kambly, 1971), và thường là vị thế sống được chấp nhận bởi những đứa trẻ bị bỏ rơi. Không nhận được những tương tác kích thích từ bố mẹ, những trẻ này đầu tiên cảm thấy chúng không “OK” và sau đó cũng chẳng thể tin được rằng có ai đó “OK” được cả, bởi vì chúng cũng không trao cho ai khác những tương tác kích thích. Những người ở vị thế này thường có cái nhìn vô vọng về cuộc đời, và chỉ sống trên cơ sở ngày qua ngày mà thôi. Họ dễ phát sinh những hành vi dạng phân liệt (schizoid behavior) (James & Jongeward, 1971).

Sự lựa chọn vị thế sống của mỗi người là sản phẩm của những mệnh lệnh và sự cho phép, chủ yếu là từ bố mẹ, ngay từ thuở nhỏ.

Các mệnh lệnh

Đó là những điều bố mẹ bắt con phải làm theo những cách thức đã được xác định rõ. Tác động lâu dài của những mệnh lệnh này tùy thuộc vào cả hình thức lẫn cách thức bắt buộc làm theo mệnh lệnh. Berne liệt kê ra 3 lọai mệnh lệnh:

  1. Mệnh lệnh cấp độ I

Còn gọi là mệnh lệnh trực tiếp (straight commands). Là những mệnh lệnh bắt buộc theo kiểu chấp nhận hoặc không chấp nhận. Đây là một phần trong những tương tác bình thường giữa bố mẹ và con cái và việc sử dụng những mệnh lệnh này không ngăn trở sự phát triển của vị thế sống và kịch bản sống nơi đứa trẻ.

  1. Mệnh lệnh cấp độ II

Là loại mệnh lệnh trong đó cha mẹ gửi đến đứa trẻ một thông điệp vừa có ý công khai vừa kèm theo ẩn ý. Những mệnh lệnh loại này thường được bắt buộc bởi sự hăm he, đe dọa, và do tính chất nhập nhằng của thông diệp, chúng có thể khiến cho trẻ nhầm lẫn, khó hiểu. Chúng có thể khiến trẻ dễ chấp nhận vị thế sống “I’m not OK”.

  1. Mệnh lệnh cấp độ III

Là những mệnh lệnh thường đi kèm theo sự trừng phạt nặng nề. Những mệnh lệnh này dễ khiến trẻ chấp nhận vị thế “I’m not OK”, nhưng còn gây tổn thương hơn cả loại mệnh lệnh cấp độ II vì chúng khiến trẻ cảm thấy mình như một kẻ thua thiệt thật sự.

Lọai mệnh lệnh cấp độ I không ngăn cản sự phát triển của một kịch bản sống tích cực; mệnh lệnh cấp độ II và III thì có tính ngăn trở sự phát triển này. Tất cả các mệnh lệnh đều có tính tiêu cực, và càng khắc khe thì chúng càng nhiều khả năng để đứa trẻ chấp nhận vị thế sống “I’m not OK”.

Sự cho phép (permission)

Khi bố mẹ tạo điều kiện cho trẻ tự do chọn quyết định của riêng mình thì họ đang thực hiện sự cho phép. Trẻ càng nhận được nhiều sự cho phép thì càng có nhiều khả năng trẻ chọn và chấp nhận vị thế sống và kịch bản sống tích cực. Sự cho phép cũng là một công cụ của nhà trị liệu.

Kịch bản sống (life script)

Với vị thế sống đã chọn, đứa trẻ bắt đầu áp dụng một kế hoạch sống, hoặc còn gọi là một kịch bản sống. Kịch bản này được thiết kế để thỏa mãn nhu cầu về vị thế sống. Kịch bản cho phép đứa trẻ liên tục khẳng định lại vị thế sống mà trẻ đã chọn, bất kể là vị thế đó đã chọn sai như thế nào. Kịch bản sống vạch ra một con đường mà qua đó mỗi cá nhân sẽ cấu trúc thời gian sống và các cách thức mà người đó có thể nhận được những tương tác kích thích cần thiết cho sự tồn tại. Bằng cách này, kịch bản sống đã can thiệp vào khả năng của trạng thái cái Tôi A (cái Tôi Người Lớn) của cá nhân đó trong việc đánh giá chính xác các dữ liệu từ cuộc sống thực tế hiện tại. Vì thế kịch bản sống là phương tiện để hợp lý hóa những hành vi phi lý và không thích đáng.

Kịch bản đối lập (counter-script)

Ngoài việc xây dựng một kịch bản sống, mỗi cá nhân còn có thể phát triển thêm cho mình một kịch bản đối lập lại như một cách thức để đôi lúc có thể quên đi một kịch bản sống không vui và chiếu cố đến một kịch bản khác tốt hơn, để rồi sau đó quay trở lại với kịch bản cũ vốn có. Steiner (1973) mô tả một kịch bản đối lập của một bệnh nhân nghiện rượu dưới hình thức là người ấy đã có lúc trở nên điềm đạm trong những khoảng thời gian ngắn; hoặc đối với một người có kế họach thực hiện việc tự sát nhưng vẫn dành ra một thời gian ngắn để hạnh phúc trong mối quan hệ với người yêu của mình. Trong tất cả các trường hợp đều có một mô hình có tính chu kỳ: đương sự dành phần lớn thời gian để thực hiện kịch bản sống chính, nhưng xen vào đó là những thời gian ngắn vận dụng kịch bản đối lập, chỉ để rồi quay trở lại với kịch bản cũ.

Tìm hiểu những động cơ chủ yếu của con người là một việc thiết yếu để có thể phân tích được các tương giao. Trong hầu hết trường hợp, việc hiểu biết này có được từ sự phân tích kịch bản sống của một con người. Kịch bản sống để lộ ra phương thức mà một con người cấu trúc thời gian sống của mình, lựa chọn vị thế sống và các phương thức giúp duy trì vị thế sống đó. Những phương tiện mà con người dùng để tìm kiếm sự thỏa mãn các nhu cầu cơ bản được gọi là các “tương giao” (transactions).

Xem tiếp Phần III

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...