Chủ Nhật, 18 tháng 7, 2021

STRESS LÀ GÌ? - Phần II

  BS.  NGUYỄN MINH TIẾN (dịch và tổng hợp)


Xem lại Phần I


Phần II

STRESS - MỘT QUAN ĐIỂM HỆ THỐNG

Stress là một khái niệm mang tính tổ chức, liên hệ đến nhiều thông số và quá trình, xảy ra trên nhiều bình diện của sự phân tích: sinh lý, nhận thức - cảm xúc, hành vi và môi trường. Vì thế, stress là một đáp ứng tích hợp sinh học - tâm lý - xã hội với những sự kiện được xem là có hại và đòi hỏi những kỹ năng ứng phó của đương sự. Chúng ta sẽ khảo sát từng bình diện một cách chi tiết và mô tả những ảnh hưởng qua lại của chúng.

Nhận định (cognitive appraisal)

Các kích thích không mong muốn từ môi trường, sinh lý và tinh thần không gợi lên ngay một đáp ứng stresss. Đương sự không thụ động tiếp nhận kích thích, mà chủ động nhận định về nó. Nhận định là quá trình trong đó chúng ta gán những ý nghĩa cho các sự kiện bên trong chung ta hoặc xung quanh chúng ta (LevineWeinbergUrsin, 1978). Chúng ta thường xuyên đánh giá sự thích đáng đối với bản thân (personal relevance) và ý nghĩa hưởng lạc (hedonic connotation) của những kích thích mà chúng ta chú tâm đến. Dựa trên kinh nghiệm quá khứ và hoàn cảnh hiện tại, một kích thích có thể được đánh giá là: (1) không đáng kể (một tình trạng không có ý nghĩa đặc biệt nào); (2) lành tính (một tình trạng tích cực, làm gia tăng phúc lợi cá nhân); hoặc (3) tiêu cực (một tình trạng thực sự tiêu cực, đe dọa đến phúc lợi cá nhân) (LazarusLaunier, 1978). Stress liên quan đến việc nhận định một sự kiện là có tính đe dọa, có hại hoặc thách thức. Giả sử bạn lái xe lên miền núi để thực hiện một kỳ trượt tuyết và gặp phải một trận bão tuyết. Con đường có thể vượt qua được, nhưng bị đóng băng rất nhiều. Nhiều xe hơi, xe tải được thấy nằm trong các mương rãnh ở hai bên đường. Bạn thật khó mà điều khiển được xe. Có lẽ bạn sẽ thấy rất căng thẳng và tức giận. Bạn cũng đang trong tình trạng nguy hiểm và có thể bị mất một kỳ nghỉ đáng giá mà bạn đã chuẩn bị từ lâu. Như đã nêu trong phần đầu, một tình huống nhất định có thể gợi lên một số kiểu nhận định tiêu cực.

Một khi sự kiện được nhận định là “tiêu cực”, một sự lượng giá khác cũng sẽ được thực hiện nhằm xem xét có thể làm được gì để ứng phó với sự kiện và liệu những việc ấy sẽ mang lại hiệu quả như thế nào. Quá trình này gọi là nhận định khả năng ứng phó (coping appraisal) (LazarusFolkman, 1984). Nếu quá trình nhận định kích thích (stimuli appraisal) đặt ra các câu hỏi chính như “Sự kiện này có ý nghĩa gì đối với ta?”, thì quá trình nhận định khả năng ứng phó sẽ đặt ra câu hỏi “Ta có thể làm gì để giải quyết vấn đề này?” và “Những việc ấy sẽ có hiệu quả như thế nào?”. Giai đoạn này bao gồm việc đề ra một chiến lược ứng phó (coping strategy) đối với tác nhân gây stress và ước tính hiệu quả của những chiến lược này.

Ví dụ, để tiếp tục lái xe (trong tình huống nêu trên), mối quan tâm của bạn về tình trạng đường sá và mong muốn thực hiện kỳ trượt tuyết khiến bạn phải xem xét để lựa chọn một giải pháp. Bạn có thể rời khỏi con đường và chờ đợi một xe ủi tuyết; bạn có thể lái xe chầm chậm cho đến khi tìm được lối ra và chờ cho qua cơn bão; hoặc tìm một lối đi khác ít nguy hiểm hơn. Bạn có thể đưa ra bất kỳ sự lựa chọn nào, nhưng phải liệu xem chúng có giúp ích gì hay không? Ngoại trừ việc dừng xe lại tại chỗ, còn thì chẳng có cách nào có thể tức thời chấm dứt được mối nguy hiểm. Nhưng việc này lại dẫn đến một sự đe dọa khác kéo dài và nghiêm trọng hơn: không có thức ăn và thiếu điều kiện để sưởi ấm. Những giải pháp khác thì tốt hơn về lâu dài. Tuy nhiên, nếu bạn dừng lại và chờ cho cơn bão đi qua, việc đặt phòng trọ của bạn sẽ bị hủy bỏ. Còn các lối đi khác, theo đài phát thanh, cũng chẳng có gì tốt hơn vv…

Cả việc nhận định sự kiện là tiêu cực cũng như việc xem xét các khả năng ứng phó là không đầy đủ và không hiệu quả đều là những yếu tố cần có để stress xuất hiện. Hai loại nhận định này được bàn riêng để làm rõ các quá trình, nhưng chúng lại có thể xảy ra tương đối tự nhiên và đồng thời. Mức độ “tiêu cực” của một sự kiện và mức độ “không đầy đủ” của tiềm năng ứng phó có thể thay đổi. Việc nhận định kích thích và nhận định khả năng ứng phó sẽ tương tác với nhau để hình thành mức độ của stress mà đương sự trải qua. Mức độ stress cao nhất (như trong ví dụ trên) xảy ra khi kích thích là rất tiêu cực và khi không có biện pháp nào để giải quyết sự kiện. Khi sự kiện ít trầm trọng hơn và các cố gắng ứng phó có tính khả thi thì mức độ stress sẽ giảm đi. Tuy nhiên, một số tình huống vẫn xảy ra stress khi sự kiện kích thích được nhận định là “rất tiêu cực”, ngay cả khi những phương thức ứng phó có khả năng thực thi được (ví dụ: khi dự các kỳ thi quan trọng, dù bạn đã được chuẩn bị kỹ) do tính chất nghiêm trọng của sự kiện. Tương tự, khi sự kiện ít nghiêm trọng, nhưng trong tay không có sẵn những biện pháp giải quyết (như khi ngồi trên ghế cho nha sĩ nhổ răng, hoặc lái xe qua một vùng hoang vắng), stress sẽ xảy ra do bị mất khả năng kiểm soát sự kiện.

Như đã mô tả, quá trình nhận định dường như khá tách biệt và có tính phân tích, và nó không phù hợp với kinh nghiệm chủ quan của chúng ta về sự đe dọa hoặc có hại. Một phản ứng cảm xúc sẽ xảy ra đồng thời với quá trình nhận định (LeventhalNerenz, 1983). Khi một sự kiện được nhận định là lành tính, những cảm xúc tích cực như vui vẻ, yêu thương, hạnh phúc, phấn khởi, thanh thản sẽ diễn ra nơi đương sự. Nếu sự kiện được đánh giá là tiêu cực, những cảm xúc như sợ hãi, lo âu, tội lỗi, thất vọng hoặc trầm uất sẽ xuất hiện. Quá trình nhận định hòa nhịp cùng với cảm xúc. Các quá trình nhận định và cảm xúc có ảnh hưởng qua lại với nhau (Schacter, 1964). Trong thực tế, ngoài việc kiểm soát chính bản thân sự kiện tiêu cực, đương sự cũng cần kiểm soát các khuấy động cảm xúc. Trong ví dụ nêu trên, lái xe trên một con đường trơn trợt và việc mất một kỳ nghỉ có thể gây nên sự tức giận.

Quá trình nhận định có tính chủ quan nhưng không mạo hiểm. Nó chịu ảnh hưởng bởi bản chất của sự kiện kích thích và bởi những đặc trưng của đương sự thực hiện việc nhận định. Đây là ý nghĩa thực sự của quan niệm về tính tương giao (transaction) của stress (Lazarus, 1966). Nhân cách, kinh nghiệm quá khứ và các thông số cá nhân khác của đương sự giúp hình thành nên sự nhận định, đặc biệt khi sự kiện có tính nhập nhằng, nước đôi. Nhưng cách nhận định của đương sự lại chịu sự thúc ép của sự kiện. Khi một sự kiện tương đối nhập nhằng, việc nhận định thường phù hợp với bản chất khách quan của sự kiện. Chúng ta hãy xem xét những yếu tố thuộc về cá nhân đương sự và sự kiện kích thích đã góp phần vào quá trình nhận định.

Các yếu tố thuộc cá nhân đương sự

Sự nhận định về kích thích và các đáp ứng ứng phó sẵn có nhằm đáp ứng lại kích thích ấy chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các thông số cá nhân (WrubelBrennerLazzarus, 1981). Nhiều thông số cá nhân được nghiên cứu trong mối liên quan với stress. Theo sau Lazarus và Folkman, chúng ta sẽ khảo sát riêng về hai thông số cá nhân khác là đối tượng ủy thác (commitment) và niềm tin (belief).

Đối tượng ủy thác là những gì mà đương sự đánh giá cao và xem là quan trọng, bao gồm những mục đích và hoạt động mà họ đầu tư năng lực vào, hoặc những nhóm người và tổ chức mà đương sự gắn bó. Hãy suy nghĩ về những đối tượng ủy thác của bạn. Những người nào, hoạt động nào và mục đích nào là rất quan trọng đối với bạn? Bất kỳ sự đe dọa hoặc gây thách thức cho những đối tượng ủy thác của bạn đều chất chứa một tiềm năng gây stress rất lớn. Nếu bạn yêu một người, những mối đe dọa cho người ấy hoặc đe dọa mối quan hệ giữa bạn với người ấy đều sẽ làm bạn khó chịu.

Đối tượng ủy thác tác động lên sự nhận định của bạn thông qua việc ảnh hưởng lên sự nhạy cảm của bạn đối với những kích thích nhất định. Chúng ta càng đầu tư nhiều vào một ai đó, một mục đích hoặc một hoạt động nào đó, thì stress xảy ra càng nặng nề khi người đó, mục đích đó, hoạt động đó bị đe dọa. Các đối tượng ủy thác càng làm tăng thêm khả năng mẫn cảm của chúng ta đối với stress. Hãy nghĩ về một người mà bạn yêu tha thiết; và bởi lòng quyến luyến quá mạnh của bạn, một sự khước từ của người đó có thể khiến bạn bị tổn thương nghiêm trọng. Nhưng mặt khác, tình yêu của bạn với người đó cũng mang đến cho bạn những giây phút vui tươi, thỏa mãn và hài lòng. Đối tượng ủy thác chính là “con dao hai lưỡi” vậy!

Một ví dụ tương thích hơn về sức khỏe là ý chí sống còn (will to live). Sự mất đi người đồng hôn phối (đối tượng ủy thác quan trọng) thường dẫn đến bệnh tật và làm tăng tử suất ở những bạn tình còn sống (JacobsOstfeld, 1977; Parks, 1970). Trái lại, việc tìm thấy những ý nghĩa và có được những đối tượng ủy thác mạnh mẽ có thể gia tăng những cơ hội sống còn, thậm chí trong những tình huống xấu nhất. Tất cả những ai còn sống sót từ những trại tập trung của Đức Quốc Xã đều cho biết rằng họ đã tìm được một lý do nào đó để sống sót: sống để làm nhân chứng, sống vì lợi ích của bà con thân thuộc, hoặc sống để trả thù (Frankl, 1959). Đối tượng ủy thác động viên chúng ta tồn tại trong sự đối đầu với nghịch cảnh. Khi đương đầu với một mối đe dọa cho điều mà chúng ta coi là quan trọng, chúng ta sẽ cố gắng hết sức để loại bỏ mối đe dọa đó.

Một thông số cá nhân thứ hai ảnh hưởng lên sự nhận định của chúng ta là sự ý thức về khả năng kiểm soát sự kiện (sense of control over events). Sự ý thức về khả năng kiểm soát sự kiện sẽ làm giảm stress, và thiếu điều này sẽ làm tăng thêm stress. Ví dụ, Ferrare (1962) thấy rằng những người già tự mình lựa chọn vào nhà dưỡng lão (có ý thức kiểm soát) thì sống lâu hơn những người vào nhà dưỡng lão mà không tự chọn (ít khả năng kiểm soát). Tương tự, Langer và Rodin (1976) đã nghiên cứu những hiệu quả của việc tăng cường khả năng kiểm soát ở những người già trong các nhà dưỡng lão. Những ai được giao trách nhiệm và được tự lựa chọn công việc hằng ngày và sắp xếp đời sống thì sẽ tỉnh táo hơn, tích cực hơn và vui vẻ hơn so với nhóm người được để cho nhân viên nhà dưỡng lão chăm sóc. Những người được thúc đẩy khả năng kiểm soát cho thấy tình trạng sức khỏe thể chất tốt hơn. Trong vòng 18 tháng, số tử vong ở những người được tăng cường khả năng kiểm soát là 15% so với 30% trong nhóm kia.

Sự thiếu khả năng kiểm soát - thực sự chỉ là cảm nhận như vậy - thường được gọi là sự “vô dụng” (helplessness) (Seligman, 1975). Sự vô dụng xảy ra khi khi đương sự cảm thấy hành vi của họ chẳng có hiệu quả gì hoặc các sự kiện là không thể kiểm soát được. Điều này được đặc trưng bởi tính thụ động trong hành vi, cảm xúc ức chế và tư tưởng tập trung vào sự thất vọng. Người “vô dụng” sẽ ngưng cố gắng, thậm chí cả khi được chuyển sang những điều kiện sống mới (MillerSeligman, 1975). Họ có những kỳ vọng tiêu cực về bản thân, về tương lai và về thế giới (Beck, 1976). Họ tin rằng “Bản thân ta chẳng tốt gì. Thế gian này chẳng có gì tốt, và tình thế cũng chẳng thể nào khá hơn”.

Sự nhận thức về khả năng kiểm soát có ảnh hưởng lên sự tác động của stress đối với đương sự. Stress càng gia tăng khi đương sự cảm thấy hành vi và kết quả không liên quan với nhau. Việc thiếu khả năng kiểm soát sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực đối với hành vi, tình cảm và sinh lý.

Các yếu tố thuộc về tình huống

Các đặc tính của sự kiện kích thích cũng có ảnh hưởng đến sự nhận định. Chúng ta sẽ tập trung vào hai đặc tính sau: khả năng tiên đoán (predictability) và sự hạn định thời gian (timing). Khả năng tiên đoán là sự biết trước khi nào sự kiện sẽ xảy ra. Nói chung, những sự kiện có thể tiên đoán được thì ít gây stress hơn những sự kiện không tiên đoán được. Sẽ rất có lợi nếu ta biết trước được những sự kiện ngoài ý muốn có xảy ra hay không, và nếu có thì xảy ra khi nào. Khả năng tiên đoán làm giảm mức độ đe dọa, nguy hại và thách thức, bằng cách cho phép ta chuẩn bị ứng phó sự kiện và biết được khi nào chúng ta được an toàn (WeinbergLevine, 1980).

Tầm quan trọng của khả năng tiên đoán được chứng minh trong nghiên cứu của Hunter (1979) trên những người vợ (Mỹ) có chồng bị chết, bị mất tích, bị bắt hoặc đã trở về từ cuộc chiến tranh Việt Nam. Khả năng tiên đoán của những người vợ ấy giảm dần theo thứ tự sau: chồng đã trở về, bị giết, bị bắt và bị mất tích khi đang làm nhiệm vụ. Hunter thấy rằng những người vợ có chồng bị mất tích trong chiến tranh đã biểu hiện tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần ở mức xấu nhất. Họ phải đối đầu với một sự không chắc chắn lớn lao nhất liên quan đến tình trạng hôn nhân, vai trò và trách nhiệm của họ. Họ gần như đã bị cầm tù.

Sự xuất hiện chắc chắn của stress cùng thời gian và tần số của nó cũng ảnh hưởng lên sự nhận định của đương sự. Khi một sự kiện trở nên chắc chắn sẽ xảy đến, đương sự sẽ nhận thấy nó càng lúc càng có tính thách thức và đe dọa. Mechanic (1062) thấy rằng những thí sinh chuẩn bị thi lấy bằng tiến sĩ sẽ càng bị lo âu hơn khi kỳ thi đến gần. Một khi kỳ thi thực sự bắt đầu, sẽ có sự giảm nhẹ đáng kể về cảm xúc và các triệu chứng sẽ mất đi. Một thí sinh đã nói “Vào thi không tệ bằng biết trước về kỳ thi. Bạn không phải lo lắng gì trong khi thi”.

Thời gian hiện diện của các tác nhân gây stress cũng thay đổi từ những sự kiện có giới hạn về thời gian như thi cử, nhổ răng, đến những sự kiện kéo dài như mâu thuẫn vợ chồng, tham gia chiến đấu hoặc mắc bệnh ung thư. Thời gian và tần số xuất hiện các tác nhân gây stress cũng được xem là có vai trò trung tâm trong việc xác định những hậu quả tiêu cực của stress đối với sức khỏe. Giả định cho rằng stress mạn tính làm suy mòn đương sự (Selye, 1956), nhưng vẫn còn quá ít nghiên cứu về tác động của các tác nhân gây stress khác nhau về thời gian và tần số xuất hiện.

Theo quan điểm hệ thống, Stress bao gồm việc đương sự nhận định một sự kiện là có hại, đe dọa hoặc thách thức, và tiềm năng ứng phó của đương sự là không đầy đủ hoặc không hiệu quả. Những nhận định này là kết quả từ sự tương tác giữa các đặc trưng của đương sự (đối tượng ủy thác, niềm tin, các ký ức và kinh nghiệm) và những đặc trưng của sự kiện được nhận định (khả năng tiên đoán, sự hạn định thời gian và tính nhập nhằng). Sự nhận định một kích thích là có tính gây stress cũng được tạo nên từ sự khuấy động cảm xúc mà đến lượt nó lại tương tác với sự nhận định của đương sự.

Quá trình ứng phó (coping)

Ứng phó là những hành động thuộc về nhận thức và hành vi nhằm chế ngự những đòi hỏi của một sự kiện được nhận định là có tính gây stress. Khi đối đầu với một sự kiện gây stress, đương sự sẽ cố gắng “hóa giải” sự nguy hại và phòng tránh sự đe dọa. Vẫn còn có ít dữ liệu về việc làm thế nào mà đương sự ứng phó được với các tác nhân gây stress trong môi trường sống tự nhiên. Sự biến hóa của các chiến lược ứng phó là vô hạn.

Có hai đích điểm chính của sự ứng phó: tự thay đổi bản thân mình (changing ourselves) hoặc thay đổi môi trường xung quanh (changing the environment). Đương sự có thể lựa chọn hoặc thích nghi để phù hợp tốt hơn với môi trường (“gió chiều nào theo chiều đó”) hoặc thay đổi môi trường để thích hợp với nhu cầu bản thân của mình (phân hóa và chế ngự)1. Ví dụ, nhà hàng xóm của bạn tổ chức một bữa tiệc ồn ào làm phá giấc ngủ của bạn. Bạn có thể chọn cách tham gia vào bữa tiệc (tự thay đổi) hoặc gọi cảnh sát (thay đổi môi trường). Những cố gắng ứng phó có thể hoặc định hướng theo cảm xúc (emotion-oriented) hoặc định hướng theo vấn đề (problem-oriented). Sự ứng phó định hướng cảm xúc nhắm vào việc giảm bớt sự khuấy động cảm xúc gây nên bởi stress. Sự ứng phó định hướng vấn đề nhắm vào việc thay đổi sự kiện được xem là có hại. Cả hai hướng ứng phó có thể được thực hiện đồng thời, hoặc riêng biệt, và cũng có khi là không tương hợp với nhau. Trong hầu hết các tình huống gây stress, các cố gắng ứng phó đều tập trung vào cả hai hướng (FolkmanLazarus, 1980). Hãy hình dung rằng bạn đang rất căng thẳng về kỳ thi giữa niên khóa được tổ chức vào tuần tới. Việc ứng phó định hướng vấn đề là làm sao tập trung vào việc học. Ứng phó định hướng cảm xúc có thể dùng thuốc để giải bớt lo âu. Dường như việc ứng phó định hướng vấn đề được ưa chuộng hơn vì nó giải quyết được “gốc rễ” của vấn đề; nhưng ứng phó định hướng cảm xúc cũng rất quan trọng. Cảm xúc thường là khổ sở và lo lắng, và có hậu quả bắt nguồn từ stress. Sự khuấy động cảm xúc cũng có thể can thiệp vào các cố gắng về nhận thức và hành vi của đương sự khi ứng phó với vấn đề. Trong vài trường hợp (như thiên tai hoặc bị thương tật), ít có khả năng để chúng ta làm được điều gì nhằm giải quyết vấn đề; việc cơ bản là ứng phó với tình trạng khuấy động cảm xúc được khơi lên từ các sự kiện ấy. Các chiến lược ứng phó có ba hình thức:

Chiến lược ứng phó về nhận thức (cognitive coping strategy)

Chúng ta có thể ứng phó với những tác nhân gây stress hoặc với cảm xúc của chính mình bằng cách giải quyết vấn đềtự nói chuyện (self-talk) và tái nhận định (reappraisal). Giải quyết vấn đề bao gồm việc phân tích tình huống để đề ra những hành động khả thi, đánh giá những hành động đó và lựa chọn kế hoạch hành động hữu hiệu (JanisMann, 1977). Ví dụ, với kỳ thi giữa niên khóa, việc giải quyết vấn đề có thể gồm làm sao để giảm bớt lo âu (định hướng cảm xúc, đích là bản thân) (emotion-oriented, sefl as target); học thế nào để được điểm cao (định hướng vấn đề, đích là bản thân) (problem-oriented, sefl as target); vào học lớp nào để bớt lo (định hướng cảm xúc, đích là môi trường) (emotion-oriented, environment as target); và làm sao tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè để cùng học (định hướng vấn đề, đích là môi trường) (problem-oriented, environment as target).

Tự nói chuyện một mình ngụ ý chỉ những câu nói hoặc ý nghĩ thầm kín được dùng để hướng dẫn những cố gắng của chúng ta vào việc ứng phó với sự kiện gây stress cùng những khuấy động cảm xúc kèm theo nó. “Lời nói bên trong” ấy hướng sự chú tâm đến những kích thích thích đáng, tạo điều kiện cho việc hình thành và thực hiện các chiến lược ứng phó và cung cấp một sự phản hồi chính xác. Tưởng tượng bạn đang ngồi trên chiếc ghế của một nha sĩ, chờ làm răng. Bạn có thể tự nhủ “Vị nha sĩ là người thận trọng; ông sẽ chăm sóc chứ không làm đau mình đâu” (định hướng cảm xúc, đích là môi trường); hoặc “Mình căng thẳng quá, cần thở sâu để thư giãn” (định hướng cảm xúc, đích là bản thân); “Nhìn những hình vẽ trên trần nhà kia có lẽ dễ chịu hơn” (định hướng vấn đề, đích là môi trường); hoặc “Mình cần phải đương đầu với nó đây” (định hướng vấn đề, đích là bản thân).

Tái nhận định gồm việc giảm bớt tác động của sự kiện bằng cách thay đổi cách diễn giải sự kiện. Nói cách khác, sự kiện sẽ được gán cho một ý nghĩa khác. Một thí sinh thi hỏng có thể nghĩ rằng “Bài thi này thật khó quá sức” (định hướng vấn đề, đích là môi trường), hoặc “Hôm nay xui thật” (định hướng vấn đề, đích là bản thân). Sự tức giận này có thể được nhận định lại bằng cách nghĩ rằng “Ông thầy thật đáng ghét, mình có quyền tức giận được chứ” (định hướng cảm xúc, đích là môi trường) hoặc “Chẳng đáng gì, khóa học này dù sao cũng không quan trọng” (định hướng cảm xúc, đích là bản thân).

Chiến lược ứng phó về hành vi (behavioral coping strategy)

Đương sự cũng phải ứng phó với stress bằng hành vi. Nói chung, có bốn loại đáp ứng với stress bằng hành vi: tìm kiếm thông tinhành động trực tiếpkiềm chế hành động và quay sang người khác.

Tìm kiếm thông tin (seeking information) là thâu thập dữ liệu về bản chất của tác nhân gây stress và về các chiến lược ứng phó khả thi. Một người khi biết mình bị ung thư có thể tìm kiếm thông tin về tiên lượng của bệnh này thông qua một nhân viên y tế (Haan, 1977). Người đó có thể dựa vào sự thay đổi kích thước của khối u có thể sờ nắn được để đánh giá hiệu quả của điều trị (NorenzLeventhalLove, 1982). Thông tin vì thế sẽ giúp ích cho các chiến lược ứng phó và tăng cường cảm giác về khả năng kiểm soát và tiên đoán sự kiện.

Hành động trực tiếp (direct action) là công khai các đáp ứng bằng lời nói hoặc hành động nhằm làm thay đổi tác nhân gây stress hoặc các khuấy động cảm xúc liên quan đến stress. Một người bị bong gân cổ chân có thể nghỉ ngơi, dùng thuốc giảm đau hoặc đến bác sĩ khám. Một người vừa bị mất đi người mà mình thương yêu có thể tự “chôn” mình trong công việc, hoặc xem những bức hình cũ của người quá cố cho vơi bớt nỗi buồn.

Kiềm chế hành động (inhibiting action) là không làm một điều gì đó nhằm làm giảm bớt stress và các khuấy động cảm xúc. Một người bị ho kinh niên có thể ngưng hút thuốc lá. Tránh các tình huống tạo nên lo âu cũng thích hợp với loại đáp ứng này. Ví dụ, đương sự thường hay “quên” các cuộc hẹn với nhân viên y tế vì bị đau hoặc bị ngượng ngùng khi được khám bệnh. Loại ứng phó sau cùng về hành vi - quay sang người khác (turning to others) - theo truyền thống thường được gọi là sự hỗ trợ xã hội (social support).

Hỗ trợ xã hội (Social support)

Cụm từ “quay sang người khác” được dùng ở đây vì nó nhấn mạnh vào bản chất tích cực và tương hỗ của chiến lược ứng phó này. Mối tương quan giữa bản thân chúng ta và những người khác tạo nên nguồn lực quan trọng để ứng phó với stress. Chúng ta có thể nhận được sự hỗ trợ vật chất, tinh thần và thông tin từ những người khác. Hỗ trợ vật chất gồm tiền bạc, hàng hóa và các dịch vụ sẵn có từ những người khác (CohenMcKay, 1984). Hỗ trợ tinh thần là khi cảm thấy mình được người khác yêu thương, đánh giá cao và có cơ hội để trao đổi những cảm giác ấy (Cobb, 1976). Hỗ trợ thông tin là khi được người khác cho ý kiến về ý nghĩa của những sự kiện gây stress, hoặc cho lời khuyên về những chiến lược ứng phó và cung cấp một phản hồi về tính đúng đắn của các cố gắng ứng phó này (CohenMcKay, 1984).

Hỗ trợ xã hội có thể điều chỉnh stress bằng hai cách. Đầu tiên, một sự hỗ trợ như thế có thể phòng ngừa được stress. Biết được những người khác sẽ chăm sóc và giúp đỡ mình là một cách để phòng ngừa stress vì các sự kiện khi ấy sẽ được xem là ít có tính đe dọa (SingerLord, 1984). Việc thiếu sự hỗ trợ xã hội có liên quan đến tình trạng sức khỏe kém. Ví dụ Berkman và Syme (1979) đã thấy rằng hỗ trợ xã hội là một yếu tố tiên lượng khiêm tốn nhưng rất quan trọng về tình trạng tử vong, ngay cả khi tình trạng sức khỏe ban đầu, các hành vi gây tổn hại sức khỏe và tình trạng xã hội đã được kiểm soát. Những ai ít có những mối quan hệ xã hội thường có tỷ lệ tử vong cao hơn.

Hỗ trợ xã hội cũng có thể làm giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực của stress khi nó đã xuất hiện. Ví dụ, hỗ trợ xã hội có liên quan đến thời gian sống còn được kéo dài hơn ở những bệnh nhân ung thư (WeismanWorden, 1975). Một số lớn vấn đề được báo cáo ở những bệnh nhân là các vấn đề về giao tiếp. Chúng bao gồm sự khó giao tiếp với người khác về bệnh ung thư, nói chuyện với những thành viên trong gia đình về tương lai và việc thu thập thông tin từ những nhân viên y tế (WortmanDunken-Schetter, 1979). Nhân viên y tế, gia đình và bạn bè có thể giúp bệnh nhân ung thư làm rõ vấn đề và đoan chắc điều gì sẽ xảy đến với họ, biểu hiện tình yêu thương, sự chăm sóc, và cùng nhau phát triển những chiến lược ứng phó với các nhu cầu về thể chất và tinh thần của bệnh ung thư cùng việc điều trị bệnh này. Hỗ trợ xã hội cũng kích thích sự lành bệnh bằng cách thúc đẩy người bệnh gắn bó hơn với việc điều trị (Suls, 1982).

Những yếu tố xác định nên chiến lược ứng phó

Một số lớn chiến lược ứng phó có thể được áp dụng để đáp ứng với stress. Việc chọn lựa chiến lược chịu ảnh hưởng bởi các thông số thuộc về bản thân đương sự cũng như các thông số thuộc về tình huống. Những thông số cá nhân như giá trị (value) và niềm tin (belief) sẽ làm phát sinh hoặc loại bỏ một số cách thức hành động và ảnh hưởng đến cách thức của đương sự ứng phó như thế nào với tác nhân gây stress. Một kiểu cách đáp ứng cũng phải có sẵn trong “vốn sống” của đương sự trước khi nó có thể được sử dụng để ứng phó với các tác nhân gây stress. Ly hôn là một giải pháp hợp lý để giải quyết mâu thuẫn vợ chồng (trong những tình huống không thể hòa giải), nhưng nó lại là điều không thể chấp nhận được ở những ai có niềm tin rằng ly hôn là có tội. Một đáp ứng quyết đoán dường như là cách chọn lựa hợp lý để ứng phó với những kẻ không biết điều, nhưng có nhiều người đã không biết cách biểu lộ những cảm giác và ý kiến của mình một cách trực tiếp và mạnh mẽ như thế. Tóm lại, các kiểu hành động ứng phó phải “có sẵn” nơi đương sự và được đương sự chấp nhận.

Tình huống xảy ra tác nhân gây stress cũng có thể ảnh hưởng đến phương thức mà đương sự áp dụng để ứng phó. Hiển nhiên rằng, tác nhân gây stress tự nó có thể thúc đẩy tính khả dụng và hiệu quả của các chiến lược ứng phó. Nỗi mất mát từ cái chết của một người mà mình thương yêu chủ yếu đòi hỏi một hình thức ứng phó định hướng cảm xúc, bởi không thể nào làm người chết sống lại. Nội dung của tác nhân gây stress cũng thúc đẩy sự ứng phó. Hậu quả không hay sẽ xảy ra nếu một người nào đó đánh ông chủ của mình vì những yêu cầu làm việc không hợp lý. Những cố gắng ứng phó do vậy thường phải làm sao phù hợp với những áp lực và đòi hỏi của môi trường.

Đón xem tiếp Phần III

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...