Thứ Năm, 30 tháng 9, 2021

GIÁM SÁT (SUPERVISION)

2 bài viết về GIÁM SÁT (SUPERVISION)

BS NGUYỄN MINH TIẾN dịch và tổng hợp



Bài 1 - VIỆC GIÁM SÁT TRONG THAM VẤN VÀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ

Counselling and Therapy Supervision
Nguồn: Counseling Resource – Updated 27/4/2019
Tác giả: Dr GREG MULHAUSER, Managing Editor

Việc giám sát có ý nghĩa như thế nào trong tham vấn và trị liệu tâm lý? Vì lợi ích cả của những thân chủ lẫn của những chuyên viên hành nghề, hầu hết các tổ chức ngành nghề về tham vấn và trị liệu đều đòi hỏi các thành viên của mình phải kết hợp việc giám sát vào trong việc thực hành lâm sàng của họ. 

THẾ NÀO LÀ “GIÁM SÁT”?

Làm việc dưới sự giám sát có nghĩa là một chuyên viên tham vấn hoặc một nhà trị liệu tâm lý sử dụng các dịch vụ của một chuyên viên tham vấn hoặc một nhà trị liệu tâm lý khác để xem xét lại công việc mà mình đã làm với thân chủ, cũng như sự phát triển nghề nghiệp và thường là cả sự phát triển cá nhân của mình nữa. Giám sát là một dịch vụ có tính nghiệp vụ chứ không phải là một vai trò về mặt quản lý. Đối với những chuyên viên tham vấn làm việc trong những tổ chức, hai công việc giám sát và quản lý sẽ phải được tách biệt hoàn toàn. Chuyên viên giám sát có vai trò không như những “ông sếp”, mà như những cố vấn.  Một số người sử dụng cách thức giám sát nhóm (group supervision), trong đó một vài nhà trị liệu cùng ngồi lại bàn bạc với nhau về công việc của họ, mặc dù cách làm này thường được làm để bổ sung, chứ không thay thế hẳn, việc giám sát cho từng cá nhân.

AI CẦN GIÁM SÁT?

Tất cả các chuyên viên tham vấn và trị liệu tâm lý, bất kể kinh nghiệm nhiều hay ít, đều cần được giám sát. Không chỉ các tổ chức ngành nghề đòi hỏi phải có giám sát, mà việc này còn được xem như là một điều bắt buộc về mặt đạo đức. Một thân chủ tìm đến nhà trị liệu cần thận trọng xem xét lại nếu như nhà trị liệu ấy làm việc mà không được giám sát. 

VÌ SAO CẦN GIÁM SÁT?

Việc giám sát được cần đến bởi hai lý do:

1. Để bảo vệ các thân chủ;

 2. Để cải thiện khả năng của nhà trị liệu trong việc phục vụ thân chủ

Việc giám sát giúp bảo vệ các thân chủ bởi có sự dự phần có tính không thiên vị của một bên thứ ba vào công việc giữa nhà trị liệu và thân chủ, giúp làm giảm thiểu nguy cơ của những sai sót nghiêm trọng và giúp cho nhà trị liệu phản ảnh lại những cảm nhận, những suy nghĩ, hành vi cùng cách thức tiếp cận của mình đối với thân chủ. 

Khi có dịp phản ảnh lại cách thức quan hệ với thân chủ, cũng như nhận được sự nội thị (insight) từ nhãn quan của một nhà trị liệu khác, việc này cũng sẽ giúp cho người chuyên viên cải thiện được chất lượng mà họ cung cấp cho thân chủ. Cũng tương tự như khi một nhà khoa học cần đến một người đồng sự xem lại công trình khoa học của mình trước khi nó được công bố. Ít có nhà khoa học chuyên nghiệp nào trông đợi công trình của mình được công bố mà không để cho các đồng nghiệp của mình xem qua trước vì chất lượng của công trình rõ ràng là sẽ tốt hơn nhiều. 

VIỆC GIÁM SÁT CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO ĐỐI VỚI TÍNH BẢO MẬT?

Thực hành giám sát có nghĩa là nhiều thông tin chi tiết được cung cấp bởi thân chủ sẽ được chia sẻ cho những người khác ngoài nhà trị liệu có liên quan. Tuy nhiên, tính bảo mật cho thân chủ nói chung vẫn được giữ an toàn bởi vì:

1. Các thông tin để định dạng nhân thân đều không được bộc lộ;

2. Các thông tin được chia sẻ trong khi giám sát tự chúng cũng được bảo vệ bởi một thỏa thuận bảo mật và sẽ không được chia sẻ ra bên ngoài buổi giám sát.

Nói cách khác, trong khi các thông tin chi tiết về thân chủ mặc dù được chia sẻ trong mối quan hệ giám sát, vẫn không thể từ đó bị lần ngược để biết được cụ thể thân chủ là ai, và những thông tin ấy thường cũng không được chuyển tiếp ra bên ngoài mối quan hệ giám sát (một tình huống có thể xảy ra đó là vị chuyên viên giám sát lại mang thông tin về thân chủ của nhà trị liệu chia sẻ với chuyên viên giám sát của chính mình bởi vì giữa chuyên viên giám sát và nhà trị liệu được giám sát bất đồng với nhau).

Mặc dù việc giám sát phải được thực hiện một cách nghiêm túc về mặt đạo đức, một thân chủ vẫn thường có thể có những câu hỏi về việc giám sát mà nhà trị liệu của họ nhận được. Họ có mọi quyền để đặt câu hỏi về việc này và tất cả các nhà trị liệu đều phải trả lời chi tiết về việc giám sát mà họ nhận được. 

Bài 2 - TƯ TƯỞNG LÃO GIÁO VÀ CÔNG TÁC GIÁM SÁT TRONG TÂM LÝ TRỊ LIỆU

The Tao of Direction
Tác giả: JAY REEVE
Nguồn: PsychotherapyNet

Hầu hết công việc mà tôi (tác giả Jay Reeve) làm ở bệnh viện là cung cấp chức năng giám sát về tâm lý trị liệu. Những người được giám sát là một tập thể gồm nhiều thành phần bao gồm các thực tập sinh (chuẩn bị cho học vị tiến sĩ) về tâm lý lâm sàng, các bác sĩ nội trú và nghiên cứu sinh chuyên khoa tâm thần và các nhân viên khác có văn bằng tốt nghiệp cấp cử nhân. Một cách tự nhiên, phong cách thực hiện việc giám sát của tôi thay đổi tùy theo trình độ đào tạo của những nhân viên này. Các nghiên cứu sinh chuyên khoa tâm thần có trình độ, những người vừa hoàn tất chương trình đào tạo nội trú và đang theo đuổi chương trình đào tạo hậu tiến sĩ (post-doctoral) đôi khi hơi lo lắng về môn tâm lý trị liệu ở những chuyện như: Kế tiếp phải nói gì? Làm gì nếu như bệnh nhân “nổi dóa” đối với họ, vân vân và vân vân. Trái ngược lại, cũng có những chuyên viên về môi trường trị liệu (milieu therapists), dù không trải qua bất kỳ một đào tạo đại học nào cả, nhưng lại có thể thực hiện những can thiệp trị liệu một cách đáng ngạc nhiên với sự sáng tạo và sâu sắc của riêng họ. Không có cách nào có thể giúp ta làm rõ được việc một người sẽ trở thành một nhà trị liệu như thế nào nếu chỉ dựa trên học vị và chương trình đào tạo mà họ đã nhận được – một sự thật trái ngược với trực giác đã được phản ánh trong các nghiên cứu cho thấy rằng ít có mối tương quan nào giữa việc đào tạo nhà trị liệu (therapist training) với hiệu năng làm việc của nhà trị liệu (therapist efficacy). Việc khó có thể tiên đoán được một sinh viên sẽ trở thành một nhà trị liệu như thế nào đã là một phần của những điều thú vị liên quan đến công việc của tôi – công việc của một chuyên viên giám sát lâm sàng.

Tuy nhiên, những sinh viên mà tôi thực hiện giám sát có thể được chia thành hai nhóm với rất ít sự khác biệt liên quan đến việc đào tạo và trình độ chuyên môn, nhưng lại có sự khác biệt về nhu cầu và mức độ thoải mái của họ đối với công việc giám sát, cũng như sự khác biệt về cách cấu trúc và tiến trình thực hiện giám sát. Sự khác biệt ấy cũng thể hiện sự khác nhau về phong cách làm việc giữa các trường phái tâm lý trị liệu (vd. trường phái tâm động học và CBT) cũng như sự khác nhau giữa các lĩnh vực chuyên môn khác nhau (vd. giữa ngành tâm thần học và ngành công tác xã hội). Mặc dù có những khác biệt được phân định theo các yếu tố văn hóa như trên, những nhà trị liệu từ nhiều nguồn đào tạo khác nhau vẫn có thể được sắp xếp vào các những phân khúc trong một hoạt phổ về cấu trúc – tiến trình (structure-process spectrum).

Một trong số những ví dụ cho những khác biệt này được rút ra từ một khóa huấn luyện về kỹ năng khám hỏi tâm thần mà tôi cùng đảm trách với một bác sĩ tâm thần chuyên về huấn luyện. Một số sinh viên đã phải trải qua một thời gian khó khăn khi họ phải điều chỉnh kỹ thuật khám hỏi và chẩn đoán của họ sao cho phù hợp với mức độ phát triển của các thân chủ của họ. Nói cách khác, bạn thực sự không thể thực hiện một cuộc khám hỏi tình trạng tâm thần “đúng tiêu chuẩn” với một đứa trẻ 6 tuổi và từ đó mong đợi thu thập được nhiều dữ liệu. Mặt khác, trong khi một buổi chơi trị liệu với một đứa trẻ có thể cung cấp một số lượng thông tin rất nhiều, mục đích đánh giá đứa trẻ sẽ không thực hiện được nếu nó không được định hướng bởi một kế hoạch đánh giá rõ ràng và toàn diện (xem xét các tương tác xã hội, đánh giá xem đứa trẻ có đang phản ứng với các kích thích từ nội tâm hay không, sử dụng các trắc nghiệm theo thông lệ...). Trong khóa huấn luyện, nhằm dạy cho sinh viên phương pháp tốt nhất để đánh giá trẻ em, tôi và đồng nghiệp của tôi đã phải cân nhắc những gì mà các sinh viên cần có để có thể thực hiện cách thức tiếp cận tốt nhất cho từng thân chủ. Đối với một số sinh viên, họ cần phải rời bỏ sự bám víu vào cái “lịch sử bệnh lý hiện tại và khám trạng thái tâm thần”, để có thể thực sự lắng nghe đứa trẻ và “bắt mạch” được dòng chảy của những tâm trạng và các tương tác. Đối với một số sinh viên khác, họ cần được hướng dẫn và có những công cụ rõ ràng để có thể nắm bắt được ý nghĩa từ sự trình bày thường là rất hỗn độn của đứa trẻ. Những nhu cầu này thực sự là rất khác nhau, những cả hai đều là trách nhiệm của chuyên viên giám sát nhằm hiểu được và chú tâm đầy đủ vào từng học viên.

Trong bài viết này, tôi (Jay Reeve) sẽ vận dụng triết lý của Lão Giáo Trung Hoa như một phép ẩn dụ để có thể hiểu được những khác biệt đã nêu ở trên, đặc biệt là những khác biệt trong các phương pháp giám sát lâm sàng. Theo triết lý truyền thống Trung Quốc, sự quân bình trong vũ trụ được thể hiện tiêu biểu trong biểu tượng khá phổ biến của Lão Giáo: Một hình vẽ về hai lực tương phản Âm (yin) và Dương (yang) với mặt căng tiếp xúc giữa hai lực có tính cân xứng vừa bất biến vừa linh hoạt. Trong một đoạn của sách Đạo Đức Kinh (Tao Te Ching), có ghi: Mục đích của bậc thức giả là “tập trung vào Đạo”. Điều này cũng ngụ ý chỉ tình trạng Trong bài viết này, tôi (Jay Reeve) sẽ vận dụng triết lý của Lão Giáo Trung Hoa như một phép ẩn dụ để có thể hiểu được những khác biệt đã nêu ở trên, đặc biệt là những khác biệt trong các phương pháp giám sát lâm sàng. Theo triết lý truyền thống Trung Quốc, sự quân bình trong vũ trụ được thể hiện tiêu biểu trong biểu tượng khá phổ biến của Lão Giáo: Một hình vẽ về hai lực tương phản Âm (yin) và Dương (yang) với mặt căng tiếp xúc giữa hai lực có tính cân xứng vừa bất biến vừa linh hoạt. Trong một đoạn của sách Đạo Đức Kinh (Tao Te Ching), có ghi: Mục đích của bậc thức giả là “tập trung vào Đạo”. Điều này cũng ngụ ý chỉ tình trạng vô vi (wu wei) – có nghĩa là “không làm gì cả” (doing nothing), mặc dù thường được hiểu là một trạng thái quân bình mà từ đó cho phép vận hành các nguyên lý của Đạo. Trong giám sát tâm lý trị liệu, cũng có một “mặt căng tiếp xúc” giữa hai yếu tố: “cấu trúc” (structure) và “tiến trình” (process). Và vai trò của “thức giả” ở đây chính là của chuyên viên giám sát.

SỰ LINH HOẠT TRONG GIÁM SÁT TÂM LÝ TRỊ LIỆU

Giám sát là một sự tương tác rất phức tạp và đa dạng, và điều này có thể gây ngạc nhiên cho những người học. Theo kinh nghiệm của tôi, các sinh viên thường nghĩ rằng trong giám sát họ sẽ được hoàn toàn “dẫn dắt” bởi những thiên khiếu hoặc cá tính của chuyên viên giám sát. Họ thường bình luận rằng “Ông (bà) ấy là một chuyên viên giám sát tốt (hoặc tích cực, dở, xa cách, khắc nghiệt...) như thể một chuyên viên giám sát chỉ có khả năng thể hiện một hình thức giám sát.

Bất cứ ai đã từng nhiều năm làm giám sát đều biết rằng có rất nhiều trường phái tư tưởng liên quan đến những hình thức giám sát tốt nhất hiện nay. Những trường phái tư tưởng này thường có liên quan đến những định hướng lý thuyết của chuyên viên giám sát. Những khác biệt giữa các triết lý khác nhau cũng như những khác biệt bên trong từng loại triết lý đều có thể tạo nên một “sức căng động” (dynamic tension) trong công việc giám sát. Sức căng này thường được thể hiện qua mức độ thoải mái của học viên (supervisee) và chuyên viên giám sát (supervisor) đối với các kỹ thuật giám sát khác nhau trong một hoạt phổ (spectrum) đi từ mức độ “được chỉ bảo và hướng dẫn chặt chẽ” (highly didactic and directional) cho đến mức độ “đi sâu khám phá và quan hệ” (highly exploratory and relational). Hai cực của hoạt phổ này chính là hai hình thức “giám sát âm” và “giám sát dương” (yin and yang supervision).

GIÁM SÁT DƯƠNG – GIÁM SÁT DỰA TRÊN KỸ THUẬT (TECHNIQUE-BASED SUPERVISION)

Ở một cực bên này của hoạt phổ là cực có tính chất “tuyệt đối thiên về cấu trúc” (absolute structure). Chúng ta gọi đây là cực “Dương” trong kỹ thuật giám sát. Theo phương thức “giám sát Dương”, chuyên viên giám sát và các học viên tiến hành việc giám sát như là một công việc có tính hướng dẫn về mặt kỹ thuật, qua đó chuyên viên giám sát hướng dẫn cho các học viên những kỹ thuật của tâm lý trị liệu. Giám sát theo phương thức này thường có tính nổi trội là “hướng dẫn, chỉ bảo”, bao gồm việc hướng dẫn cách sử dụng những liệu pháp, các kỹ thuật chuyên biệt, những quan điểm lý thuyết, chỉ định các bài đọc thêm, và bàn đến những gì nên nói, hoặc không nên nói trong lúc trị liệu. Mục đích là hướng dẫn người học viên những cách thức chuyên biệt để thực hành tâm lý trị liệu, còn đối với học viên là để cho họ chứng tỏ được sự thành thạo ngày càng tăng của mình theo đánh giá của chuyên viên giám sát.

Theo phương thức giám sát Dương, sự thành công của học viên được đánh giá dựa trên mức độ mà họ tuân thủ theo các hướng dẫn của chuyên viên giám sát. Trong tình huống xấu nhất, thể thức này có thể dẫn đến một kiểu giám sát quá nghiêm trang và khô cứng, khiến cho học viên cảm thấy như thể những ý kiến riêng của họ, nhân cách của họ và kỹ thuật của họ chẳng có chút giá trị gì; tuy nhiên đôi khi nó cũng mang đến sự tiện ích cho học viên. Tôi nhớ lại có những lúc mình chẳng muốn gì ngoài việc chờ nghe chuyên viên giám sát của tôi nói “chính xác” những điều mà tôi phải làm. Nói chung, cũng có những lúc tôi cảm thấy không an tâm, thấy mình bị mất vị thế nhà trị liệu, hoặc cảm thấy nguy hiểm khi rơi vào một tình huống nhập nhằng, nhạy cảm khi đứng trước một thân chủ. Những học viên thường khao khát có được sự hướng dẫn khi họ bị lâm vào những tình huống gây khủng hoảng hoặc khi họ bị lẫn lộn cái ranh giới giữa mình với thân chủ. Bất cứ khi nào một học viên cảm thấy lo sợ khi vướng vào một tình thế trị liệu có tính mơ hồ thì khi ấy việc đưa ra một hướng dẫn cụ thể, rõ ràng có lẽ sẽ là một “bến bờ an toàn để tránh trú bão”.

Dĩ nhiên, học viên đôi lúc cũng “cần” phải cảm thấy mình bị lấn ép bởi những tình huống mơ hồ như vậy để phát triển nên tính dẻo dai và sức chịu đựng mà họ cần có để có thể thực hành công việc trị liệu. Tuy nhiên, một tình trạng quẫn bách kéo dài cũng khó có thể dẫn đến sự tăng trưởng. Đối với những nhà trị liệu mới vào nghề, nhà trị liệu hay lo lắng và những nhà trị liệu đang trong khủng hoảng... liều thuốc tốt nhất chính là phương thức giám sát Dương.

GIÁM SÁT ÂM – GIÁM SÁT DỰA TRÊN TIẾN TRÌNH (PROCESS-BASED SUPERVISION)

Ở cực bên kia của hoạt phổ về các phương thức giám sát chính là cái mà chúng tôi gọi là Giám sát Âm (yin supervision). Trong phương thức giám sát Âm, chuyên viên giám sát đưa người học viên vào việc xem xét cái tiến trình thực hiện tâm lý trị liệu. Việc giám sát theo loại này có tính không hướng dẫn (non-directive): học viên được khuyến khích thể hiện những cảm xúc cũng như những liên tưởng của mình về các chất liệu lâm sàng có được từ thân chủ. Việc này cũng có thể bao gồm cả những chú giải về cái tiến trình đang song song diễn ra trong mối quan hệ giám sát, cũng như việc khám phá tâm trạng và các phản ứng cảm xúc của người học viên cả trong tình huống trị liệu lẫn trong buổi giám sát. Mục đích của giám sát theo phương thức này là khám phá, càng sâu càng tốt, những trải nghiệm có được từ việc thực hành tâm lý trị liệu, phát biểu ra thành lời những xung đột hoặc những nỗi lo nằm trong vô thức đã làm ngăn trở sự phát triển của người học viên.

Trong phương thức này, sự thành công của học viên được đánh giá dựa trên mức độ mà họ thể hiện phong cách trị liệu của chính mình. Ở tình huống xấu nhất, việc giám sát dựa trên tiến trình có thể dẫn đến một tình thế mơ hồ tương tự như khi đứng trước một giao lộ giữa một liệu pháp tâm lý tồi và một tình huống thông thường ngoài xã hội. Các học viên thường than phiền về điều mơ hồ này, họ thường bảo rằng chuyên viên giám sát của họ hay “trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi”. Mặc dù điều này nghe có vẻ như cách nói cường điệu hoặc nói đùa, nhưng đó vẫn là một nhận định rất thường thấy về giám sát Âm.

Trái ngược với tính chất cứng nhắc của giám sát Dương, giám sát Âm có nguy cơ dẫn đến một cảm giác ở người học viên là phần nào đó họ đã không học được gì. Tuy nhiên, nếu được làm tốt, phương thức chú tâm dựa trên tiến trình có thể dẫn đến việc làm cho các trải nghiệm trong giám sát trở nên phong phú và có tính tưởng thưởng: đó là lúc những học viên bắt đầu trải nghiệm được bản chất tỏa lan của các tiến trình mà từ đó nó gây âm vang vào trong những lúc họ thực hành trị liệu, tham gia giám sát hoặc ngay cả trong các tương tác khác. Một trong những kỷ niệm đáng giá nhất của tôi trong quá trình được giám sát nội trú về tâm lý học đó là lúc mà chuyên viên giám sát của tôi về trị liệu trẻ em đã dạy cho tôi cách thức cứ trở lại và trở lại nhiều lần với những tiến trình chơi với các thân chủ nhỏ tuổi của tôi, và việc này dẫn tôi đến việc nhận ra những thành công trong cách can thiệp trị liệu của tôi. Trong giám sát Âm, tiến trình tự nó làm cho nó có thể được nhận biết (the process makes itself known).

QUÂN BÌNH GIỮA GIÁM SÁT ÂM VÀ DƯƠNG

Những chuyên viên giám sát có khuynh hướng tìm ra phong cách giám sát của riêng mình dựa trên những gì họ được đào tạo cũng như dựa trên nhân cách của chính họ. Những chuyên viên có xu hướng thiên về hành vi và giải quyết vấn đề thường có xu hướng giám sát thiên về cấu trúc nhiều hơn; trong khi đó các chuyên viên có xu hướng tâm động học hoặc hiện sinh thường thiên về xu hướng giám sát dựa trên tiến trình. Tuy nhiên, việc này cũng có hàng nghìn điều ngoại lệ: Robert Langs được biết như một nhà trị liệu hành vi và những nhà thực hành trường phái Zen CBT như Jeremy Safran cũng đã nhẹ nhàng hòa nhập vào xu hướng dựa trên tiến trình. Sự quân bình giữa hai phong cách “cấu trúc” và “tiến trình” có nhiều mức độ rất khác nhau giữa các trường phái trị liệu cũng như ngay trong từng trường phái trị liệu. Một vấn đề khác cũng cần nói đến đó là hiệu quả của sự tương tác giữa chuyên viên giám sát và các học viên có ảnh hưởng lên trên sự quân bình này. Tôi cũng từng có lúc bị mắc mứu vào một tình thế trong đó các học viên của tôi – do tính cách của họ, do sự huấn luyện và các giám sát trước đó của họ - đã khăng khăng chấp giữ lấy một phương thức giám sát, hoặc là Âm hoặc là Dương chứ không chấp nhận sự quân bình giữa hai phương thức.

Khi tôi thực hiện việc giám sát các học viên có định hướng theo tiến trình (process-oriented) và được đào tạo về tâm động học, yêu cầu thông thường nhất mà họ hay đặt ra là sự chỉ dẫn cơ bản và chuyên biệt về những “thủ thuật” (craft) trong tâm lý trị liệu. Họ thường phàn nàn rằng việc huấn luyện của họ thường dài dòng về lý thuyết nhưng lại thiếu những lời khuyên có tính thực hành về những gì cần được nói ra với các thân chủ. Học viên hay nói về những nỗi lo âu và những tiến trình của chính họ liên quan đến công việc thực hành trị liệu, nhưng lại có ít ý tưởng về cách đương đầu với những phiên trị liệu đang diễn ra theo thời gian, thực hiện một cuộc khám hỏi tình trạng tâm thần hoặc thách thức một phụ huynh trong phiên trị liệu gia đình. Trong những tình huống này, tôi thường có xu hướng áp dụng kiểu giám sát theo “cấu trúc” rất cụ thể và chi tiết.

Trái lại, những học viên được đào tạo theo những chương trình dựa trên thực nghiệm (experimentally-based programs) ví dụ như CBT hoặc các liệu pháp sử dụng kỹ thuật khác, dường như rất tự tin khi vận dụng các kỹ thuật nhưng lại khó có khả năng nói ra thành lời những cảm nhận của họ về cách thức mà việc trị liệu đang tiến triển như thế nào. Những học viên này thường bị “tê liệt” do những nỗi lo xuất hiện khi họ đối mặt với những tình huống không áp dụng được những kỹ thuật hoặc khi họ không hiểu được những cảm xúc của chính mình về những thân chủ mà họ trị liệu. Với những học viên này, tôi thường dùng phương pháp khám phá trong khi thực hiện việc giám sát. Học viên được khuyến khích nói và khám phá những trải nghiệm của chính họ khi họ thực hành tâm lý trị liệu, và việc này rất khớp với phong cách giám sát Âm.

LẮNG NGHE NHỮNG “KHOẢNG TRỐNG” TRONG KỸ NĂNG CỦA NGƯỜI HỌC VIÊN

Trong giám sát, cũng như trong tâm lý trị liệu, thách thức được đặt ra là phải cho phép người học bước ra khỏi tính chất cố chấp kiên định vào xu hướng “cấu trúc” hoặc “tiến trình” dể hướng đến một sự chuyển tiếp nhẹ nhàng theo các mức độ khác nhau bên trong hoạt phổ các phương thức giám sát, tùy theo điều gì là cần thiết nhất ở từng thời điểm. Để các học viên học được cách thức chuyển tiếp nhẹ nhàng này, chính những chuyên viên giám sát cũng cần phải thực hiện một cuộc hành trình tương tự hướng đến khả năng linh hoạt hơn của chính mình. Dĩ nhiên chúng ta không thể cùng lúc làm tốt tất cả mọi phong cách và mọi phương thức, nhưng chỉ cần hơi “thoáng” ra một chút cũng có lợi cho tất cả mọi người, kể cả chuyên viên giám sát lẫn các học viên. Đối với tôi, việc này bao gồm sự sẵn lòng thỏa mãn những nhu cầu của người học viên, lắng nghe một cách đầy đủ những gì mà học viên của tôi đang cần, và sau cùng, điều có lẽ là then chốt để có thể hiểu và áp dụng Lão giáo vào trong giám sát đó là: nhu cầu được quân bình.

Trong triết lý Lão Giáo, sự thật không nằm trong cực này hoặc cực kia, trong Âm hoặc trong Dương. Thay vì thế, công việc của bậc thức giả là cung cấp cái gì đó bị thiếu để mang lại sự quân bình. Để trở thành những chuyên viên giám sát giỏi, công việc của chúng tôi là lắng nghe những “khoảng trống” trong phần kỹ năng của các học viên, tính khô khan của những người quá chú trọng đến “cấu trúc”, tính mơ hồ của những người “quá nhạy cảm”, và cung cấp cho học viên những gì họ “thiếu”, không phải vì học viên “cần” những thứ ấy để họ trở nên giống như chúng tôi mà là để cố gắng giữ lấy sự quân bình cần thiết cho sự tăng trưởng mà tự nó đã có khả năng tự tiến triển và tự có giá trị.


CHUYÊN VIÊN THAM VẤN HỌC ĐƯỜNG và SỰ KẾT NỐI VỚI CÁC NHÂN VIÊN NHÀ TRƯỜNG

“Connect with Staff as a School Counselor”

Tác giả: COUNSELOR CHELSEY

Nguồn: Confident Counselors – 4/10/2017

Người dịch: ÔN BÍCH NGỌC – Thạc sĩ Tâm lý, Chuyên viên tâm lý học đường



Trở thành chuyên viên tham vấn học đường hoặc chuyên viên tâm lý học đường đôi khi sẽ có cảm giác như mình chỉ sống trong một hòn đảo tách biệt khỏi thế gian. Bạn không phải là giáo viên, bạn cũng không phải là nhân viên hành chính; nó thường khiến bạn có cảm giác như mình không thật sự thuộc về nơi này. Mọi việc sẽ càng trở nên khó khăn hơn khi nhiều chuyên viên tham vấn học đường hoặc chuyên viên tâm lý học đường thường xuyên phải di chuyển qua lại nhiều cơ sở trường học khác nhau, và chỉ có mặt ở một trường nào đó chỉ vài ngày trong tuần. Vậy nên việc kết nối với các giáo viên/nhân viên nhà trường là một thách thức không nhỏ đối với các chuyên viên tham vấn tâm lý. [Tình trạng làm việc được nói đến là ở Hoa Kỳ, khi một chuyên viên làm việc với nhiều trường – Chú thích của TN Online].

Khi mới trở thành một chuyên viên tham vấn học đường, tôi (tác giả bài viết) đến làm việc ở trường 2-3 ngày một tuần, văn phòng của tôi ở tầng hầm, và tôi được thuê qua trung gian một cơ quan làm dịch vụ sức khỏe tinh thần, điều đó có nghĩa là tôi thậm chí còn không có địa chỉ email của trường. Tôi nghĩ là những người làm việc chung với tôi đôi khi còn quên mất sự hiện diện của tôi.

Mặc dù chúng ta đi làm không phải là để kết bạn, nhưng cảm giác được kết nối với những người xung quanh cũng là điều quan trọng. Tôi nhận ra rằng khi cảm thấy được kết nối và đánh giá cao, tôi sẽ hào hứng làm việc và nỗ lực hết mình. Tôi cũng nhận ra rằng nếu các giáo viên/nhân viên không biết tôi ở đó, có thể họ sẽ không cần đến dịch vụ của tôi. Họ không thể giới thiệu học sinh đến, họ không thể yêu cầu tôi tham gia vào việc lập những kế hoạch điều chỉnh hành vi của học sinh và họ cũng không thể trao đổi với tôi về những chiến lược xây dựng văn hóa ứng xử như thế nào là tối ưu cho lớp học của họ. Tôi biết rằng nếu tôi muốn công việc của mình hiệu quả hơn, cần phải thay đổi điều gì đó. Các giáo viên/nhân viên của trường cần phải biết đến sự hiện diện của tôi.

Tôi rất vui được chia sẻ với các bạn một số bước mà tôi đã thực hiện để từ một “cô gái ở tầng hầm” không ai biết đến đã trở nên có được những mối quan hệ tuyệt vời với nhiều đồng nghiệp của tôi.

LỘ DIỆN

“Xa mặt thì cách lòng”. Thật không may, đây có thể là một vấn đề đối với nhiều chuyên viên tham vấn học đường. Nếu giáo viên và nhà trường không nhìn thấy bạn đủ nhiều, họ khó có thể nhớ đến bạn. Như tôi đã đề cập ở trên, văn phòng của tôi từng ở tầng hầm của trường học. Rào cản vật lý này có nghĩa là tôi chỉ có thể "vô tình" gặp các giáo viên trên đường đến phòng vệ sinh hoặc khi đi lấy nước uống. Sau nhiều ngày cô đơn, tôi quyết định nỗ lực để được lộ diện. Dưới đây là một số chiến lược mà tôi đã sử dụng:

- Hãy đến lớp học để nhận học sinh, thay vì gọi các em xuống phòng làm việc của mình,

- Đi dạo dọc các hành lang trước giờ làm việc hoặc khi tan tầm,

- Hãy gửi một lời chào đến bất kỳ giáo viên/ nhân viên nào mà bạn gặp, 

- Tham dự các cuộc họp mà bạn cảm thấy có ích, ngay cả khi không bắt buộc.

TÌM ĐỒNG MINH

Việc phải có một lịch trình bận rộn và thậm chí có thể không có mặt toàn thời gian tại trường, khiến tôi có rất ít thời gian để kết nối với đội ngũ nhân viên nhà trường. Thay vì cố gắng kết nối với mọi người trong trường, hãy tập trung vào những người mà bạn phải làm việc gần gũi nhất và những người có thể hỗ trợ công việc của bạn trong trường. Có thể đó là một giáo viên có một số học sinh trong lớp đang gặp khó khăn về hành vi, đó cũng có thể là vị chuyên viên tâm lý của trường, hoặc có thể đó là vị giáo viên về giáo dục đặc biệt. Cho dù đó là ai, hãy bắt đầu từ họ. Làm quen, đến lớp học của họ, trò chuyện với họ. Tìm những người đánh giá cao bạn và công việc của bạn, và tập trung nỗ lực của bạn vào đó.

KẾT NỐI VỚI GIÁO VIÊN BÊN NGOÀI TRƯỜNG HỌC

Điều này không chỉ có nghĩa là gặp gỡ với giáo viên bên ngoài trường học, mà còn có thể là kết nối thông qua cuộc sống của họ bên ngoài trường học về đời sống riêng của họ. Các giáo viên trong trường của bạn có con không? Hỏi thăm về chúng, hỏi thăm tình hình học tập của chúng, mua ủng hộ những chiếc bánh bán để gây quỹ cho phong trào mà các trẻ ấy tham gia, hỏi xem ảnh của những trẻ ấy… Cũng giống như tham vấn chỉ là một phần trong cuộc sống của bạn, việc dạy học cũng chỉ là một phần trong cuộc sống của các giáo viên này. Có rất nhiều điều chúng ta có thể làm để kết thân. Bạn cũng có thể làm điều này bằng cách kết nối thông qua các sự kiện bên ngoài. Trường học của bạn có tổ chức phong trào gì không? Hãy đăng ký tham gia. Trường của bạn có tổ chức đi ăn với nhau không? Nhờ họ mang về cho bạn một chiếc bánh ngon nào đó. Tận dụng các cơ hội để kết nối với đội ngũ với tư cách cá nhân, chứ không chỉ với tư cách là một chuyên gia.

NỖ LỰC

Giống với bất kỳ mối quan hệ bạn bè nào, việc xây dựng mối quan hệ với giáo viên và các nhân viên khác của trường cần sự nỗ lực và chủ động. Có thể có chút khó chịu khi viên thư ký chuyên môn của nhà trường nhìn thấy bạn đi đi lại lại 50 lần một ngày, nhưng đó cũng có thể là cách nhắc nhở cô ấy về việc gọi cho bạn khi có một phụ huynh cần ghé đến làm việc. Có thể bạn sẽ không thoải mái khi ăn ở phòng nghỉ của giáo viên với một giáo viên khác mà bạn không thân lắm. Tuy nhiên, sự cố gắng đó sẽ giúp các nhân viên trong trường có cơ hội để hiểu hơn về bạn và công việc tuyệt vời của bạn, ngay cả khi điều đó có gây ra chút ngượng ngùng cho bạn.

Chuyên viên tham vấn học đường là những người bận rộn. Quay vòng giữa các khủng hoảng của học sinh, các nhóm tham vấn, các tiết dạy trên lớp, các buổi họp về kế hoạch cá nhân cho học sinh (IEP), thì dường như chẳng còn lại nhiều thời gian. Tuy nhiên, việc tận dụng cơ hội để kết nối với đội ngũ nhà trường có thể rất quan trọng đối với niềm an vui và hiệu quả làm việc của bạn.

Bài viết trên đây phản ánh nhãn quan của người viết, một chuyên viên tham vấn học đường trong những năm đầu vào nghề tại Hoa Kỳ. Còn nhiều khía cạnh khác trong mối quan hệ nghiệp vụ mà một chuyên viên tham vấn học đường cần chú tâm phát triển khi làm việc với đội ngủ nhân viên nhà trường nơi mình công tác. Bạn đọc có thể xem và liên hệ với hoàn cảnh VN và những nội dung ấy có thể sẽ được phân tích tiếp ở những bài khác trên Blog Trăng Non Online sau này.


Thứ Tư, 29 tháng 9, 2021

HỌC THUYẾT VỀ NHÂN CÁCH CỦA ROLLO MAY

Rollo May Theory of Personality - Analysis
Nguồn: UK Essays – 5/7/2017 

Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN


Rollo Reese May (1909-1994)


Rollo Reese May sinh ngày 21/4/1909, tại Ada, bang Ohio, Hoa Kỳ, bởi Earl Tittle và Matie Boughton; ông là con trai đầu lòng và là con thứ hai trong gia đình có sáu người con. Cả bố và mẹ đều không được học hành đến nơi đến chốn và có động cơ rất thiên về trí thức trong gia đình. Cha mẹ của May không hợp nhau và hôn nhân của họ kết thúc bằng việc ly hôn (C.George Boeree, 1998, 2006, tr.1).

Chị gái của May được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt và người cha đổ lỗi cho căn bệnh là do học hành quá nhiều. Lớn lên May không được ở gần bố mẹ và rất ghét mẹ, ông xem mẹ mình như một "mụ mèo đáng ghét". Ông tin rằng hành vi của mẹ mình và việc chị gái mắc bệnh tâm thần phân liệt đã khiến ông trải qua hai cuộc hôn nhân thất bại. (Rabinowitz, Good, & Cozad, 1989).

May kết hôn ba lần và có hai cuộc hôn nhân thất bại, từ người vợ đầu tiên, ông có ba người con một trai và hai gái. Ông duy trì cuộc hôn nhân trong 30 năm vì những đứa con, nhưng sau đó nhận ra cuộc hôn nhân này chẳng thể làm gì để khá hơn và sau cùng ly hôn với người vợ đầu tiên. Cuộc hôn nhân thứ hai cũng không thành. Người phụ nữ cuối cùng mà ông kết hôn tên là Georgia Miller Johnson và là một nhà phân tâm theo trường phái Jungian và cuộc hôn nhân đó kéo dài từ năm 1988 cho đến khi ông qua đời vì bệnh lao (Theo Wikipedia, ông mất vì bị suy tim - ND). Con trai ông, Robert Rollo, là người điều hành tham vấn tại Đại học Amherst cùng với người em gái song sinh, Carolyn Jane, là một nhân viên xã hội, cũng vừa là một nghệ sĩ, và đứa con thứ ba là Allegra Anne, một nhà biên soạn phim tài liệu và là một bà mẹ đơn thân của hai đứa con đa chủng tộc được nhận nuôi (Bugental, 1996, tr.418).

Rollo May theo học tại Đại học Bang Michigan, về chuyên ngành Anh ngữ và bị yêu cầu rời khỏi trường vì đã trở thành biên tập viên của một tạp chí sinh viên cấp tiến, sau đó ông chuyển đến Đại học Oberlin, nơi ông nhận bằng cử nhân vào năm 1930. Sau khi tốt nghiệp, ông theo đuổi nghệ thuật và đã đi du lịch qua châu Âu với một nhóm nghệ sĩ. Ông đã ở lại châu Âu từ 1930 đến 1933, và ngoài việc nghiên cứu nghệ thuật, ông dạy tại Trường Đại học Hoa Kỳ (American College) ở Hy Lạp, từ đó ông tham gia các cuộc hội thảo mùa hè do Alfred Adler giảng dạy ở Vienna, Áo Quốc.

Vào năm thứ hai sống ở Châu Âu, ông bắt đầu đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời mình khi bị mắc phải căn bệnh lao. Trong khi nằm trong viện điều dưỡng, ông phải đối mặt với khả năng tử vong, ông đã dành nhiều thời gian để đọc các tác phẩm văn học. Tình cờ ông đọc được những tác phẩm của một nhà văn có tên là Soren Kierkegaard, một nhà văn tôn giáo người Đan Mạch, một người được truyền cảm hứng từ trào lưu hiện sinh. May trở nên có cảm hứng từ những ngôn từ thông thái của Soren Kierkegaard mà từ đó đã mang lại cho May nguồn cảm hứng để hình thành nên lý thuyết của riêng mình (C.George Boeree, 1998, 2006).

Rollo Reese May được biết đến nhiều nhất với tư cách là một nhà tâm lý học hiện sinh của Hoa Kỳ và ông được xem là cha đẻ của liệu pháp tâm lý hiện sinh (existential psychotherapy). May cũng liên quan đến với tâm lý học nhân văn; ông có một cách nghĩ khác về sự tồn tại của con người, sau đó như một nhà tâm lý học, sự tồn tại của con người trong ông trở nên rõ nét hơn theo chiều kích bi kịch.

Theo C.George Boeree, (1998, 2006) về Lý thuyết Nhân cách của May, đã phát biểu rằng Rollo Reese May, đã sử dụng các thuật ngữ khác nhau và phát minh ra các từ mới từ một số những ý tưởng cũ của chủ nghĩa hiện sinh, ví dụ từ “định mệnh” (destiny) cũng tương tự như “bị ném vào” (thrownness) và nó cũng liên hệ với ý niệm “sa xuống” (fallenness) - có nghĩa là một phần cuộc sống của con người là điều đã được xác định cho họ, ông cũng đưa ra một ví dụ khác về từ “can đảm” (courage), được sử dụng thường xuyên hơn một thuật ngữ vốn thường dùng theo truyền thống là “tính đích thực” (authenticity), vì nó có nghĩa là một người đối mặt với nỗi lo âu của mình và sau đó vượt lên trên nó (C.George Boeree, 1998, 2006).

* Thrownness: Khái niệm được đưa ra bởi triết gia Đức, Martin Heidegger, khi ông xem sự hiện hữu của con người như là được “ném” vào thế gian (Tiếng Đức: “geworfen”) – ND.

Theo Serlin và llene, công việc của May được duy trì bằng sự cân bằng giữa bóng tối và ánh sáng, giữa kinh nghiệm và trí tuệ. May xem xét những chủ đề cơ bản về sự tồn tại của con người chẳng hạn như bản chất của cái ác, tình yêu và ý chí, ý nghĩa của nỗi lo âu cũng như tầm quan trọng của huyền thoại. May đã truyền cảm hứng cho nhiều người và điều này đến từ khả năng của anh ấy trong việc đặt tên cho một khoảng trống để tạo ra một khuôn mặt cho nó, đặt tên cho cái ác nhưng hướng tới điều thiện, nhìn thấy sự vô nghĩa nhưng là để khám phá ý nghĩa và đối mặt với cái chết nhưng lại để tạo ra sự sống. May tham gia phong trào phản chiến và nhiều hoạt động xã hội khác, ông đã dạy dỗ và dìu dắt vô số sinh viên và tự gọi mình là một “kẻ nổi loạn tao nhã” (gentle rebel) (Serlin, llene A. Tikkun, 1995, tr.65), khi đối diện với một thế giới ngày càng trở nên phi nhân tính. .

Những lý thuyết về nhân cách của Rollo Reese May: Trong khi chịu ảnh hưởng của Freud, Kierkegaard và Tillich, ông đã phát triển một lý thuyết về nhân cách dựa trên triết học hiện sinh và từ đó, ông chấp nhận thuật ngữ sau: Dasein – một từ tiếng Đức có nghĩa là “hiện hữu” – (Tiếng Đức - da: "there"; sein: "to be") có nghĩa là một người cụ thể trong một thế giới có thời gian cụ thể và tồn tại trong một số những hoàn cảnh cụ thể.

BA PHƯƠNG THỨC CỦA SỰ TỒN TẠI THEO MAY (May’s Three Modes of Existence)

Umwelt là tương tác với thế giới vật chất,

Mitwelt là tương tác với những người khác, và

Eigenwelt là tương tác với chính mình.

Xa lánh (alienation) là khi một người trở nên xa rời với khía cạnh bản chất, dẫn đến cảm giác cô đơn, trống trải và tuyệt vọng, điều này xảy ra bởi vì ba phương thức tồn tại đều trở nên xa lạ với bản chất và với những người khác.

May mô tả về sự tự do mà trong đó một người có thể tự do lựa chọn ý nghĩa cho sự tồn tại của chính mình. Vì một người được tự do lựa chọn kiểu người mà họ trở thành, họ phải chịu trách nhiệm về những gì họ trở thành; hoàn cảnh số phận của một người có thể được tán dương hoặc bị đổ lỗi là tuỳ vào bản chất của sự tồn tại của họ, bởi vì chúng ta có trách nhiệm với chính mình. Bản thể học (Ontology) là môn nghiên cứu về sự hiện hữu. Trong chủ nghĩa hiện sinh, phân tích bản thể học (ontological analysis) nhắm đến việc tìm hiểu bản chất của con người nói chung và của cá nhân nói riêng. Hiện tượng học (Phenomenology) là môn nghiên cứu về trải nghiệm có ý thức vì nó tồn tại đối với con người khi không có bất kỳ nỗ lực nào nhằm giảm bớt, phân chia hay ngăn cách nó. Tính đích thực (Authenticity) là khi con người sống cuộc sống của họ phù hợp với các giá trị mà họ tự do lựa chọn, họ đang sống cuộc sống đích thực. Tuy nhiên, nếu mọi người tuân theo các giá trị do người khác thiết lập, họ đã không thực hiện quyền tự do cá nhân của mình và do đó đang sống cuộc sống không đích thực (inauthentic lives); tính “không đích thực” có liên quan nhân quả đến chứng lo âu và tội lỗi mang tính nhiễu tâm, cùng cảm giác cô đơn, kém hiệu quả, tự xa lánh và tuyệt vọng. Cái chết bởi vì con người là phàm nhân và bởi vì chết sau cùng cũng là một trạng thái phi hiện hữu (state of nonbeing), việc nhận thức về cái chết là điều con người không thể tránh khỏi sẽ có thể gây ra lo âu. Nguồn gốc của sự lo âu là một phần trong sự tồn tại của con người và không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, ý thức về cái chết có thể tiếp thêm sức sống bằng cách thúc đẩy một người sống hết sức có thể trong một khoảng thời gian có hạn. Việc được “ném” vào thế gian đã định ra hoàn cảnh sống của một người mà việc này không thể kiểm soát được. Những tác giả khác theo thuyết hiện sinh gọi đây là việc “bị ném vào thế gian” (thrownness) và May gọi nó là “định mệnh” (destiny).

May là nhà tâm lý học hiện sinh duy nhất bàn về những giai đoạn nhất định, nhưng không nghiêm ngặt như sự phát triển theo trường phái Freud.

CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN THEO ROLLO MAY

Giai đoạn “hồn nhiên” (Innocence) là giai đoạn trước khi có ý thức về bản ngã của một đứa trẻ sơ sinh (pre self conscious stage). Đó là một sự “hồn nhiên tiền luân lý” (innocent of premoral) - không có xấu cũng không có tốt, được mô tả giống như một con dã thú phải giết con mồi để ăn là vì con vật đó phải ăn, nó phải làm những gì mà nó buộc phải làm.

Giai đoạn “nổi loạn” (Rebellion), tương đương thời thơ ấu và vị thành niên, là khi mà cái tôi (ego) hay sự ý thức về bản thân (self counsciousness) đối lập với một người trưởng thành - từ kiểu nói “Không” khi là đứa trẻ mới 2 tuổi cho đến tình trạng “Hết Cách” (no way) ở tuổi thiếu niên - có nghĩa là người nổi loạn đòi hỏi sự tự do cho mình nhưng chưa hiểu về những trách nhiệm đi kèm theo đó. Một thiếu niên muốn sử dụng tiền trợ cấp của họ vào bất cứ việc gì họ muốn, nhưng đó vẫn là những việc mà cha mẹ phải cung cấp tiền, thế mà vẫn phàn nàn về việc cha mẹ không công bằng với mình.

Giai đoạn “bình thường” (Ordinary) là khi hình thành cái tôi của một người lớn bình thường, theo thông lệ và hơi nhàm chán, có lẽ họ đã học để được trách nhiệm, nhưng nhận thấy nó quá khắt khe, và vì vậy tìm kiếm nơi ẩn náu trong sự tuân thủ (conformity) và các giá trị truyền thống.

Giai đoạn “sáng tạo” (Creative) là lúc trở thành một người trưởng thành đích thực, là giai đoạn hiện sinh (existential stage), vượt ra khỏi cái Tôi và tự hiện thực hóa. Đây là một người, biết chấp nhận số phận, đối mặt với sự lo âu với lòng can đảm. 

TÌNH THẾ TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN CỦA CON NGƯỜI (Human Dilemma)

Theo May (1967), tình thế tiến thoái lưỡng nan của con người là khi con người có thể đồng thời xem mình vừa là chủ thể vừa là khách thể. Mô tả của May về sự phân đôi đối tượng-chủ thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau, không phải lúc nào cũng nhất quán. Con người có khả năng xem mình như một đối tượng của những điều xảy ra với họ, mà những thứ đó cũng bị ảnh hưởng bởi số phận của họ. Những yếu tố khách quan (objectives), tức các biến số sự kiện (events of variables) được gây ra bởi stress có thể dẫn đến những hành vi của một người, đến lượt những hành vi này trở thành sự kích thích xảy ra theo những cách thức nhất định và ảnh hưởng trên cách thức người ta phản ứng lại với cách thức kích thích đó. Tính chủ quan (subjective) là khi người đó nhận thức được thực tế đang xảy ra với họ và hành động dựa trên những thông tin giúp họ xác định được trải nghiệm nào có giá trị và trải nghiệm nào không có giá trị đối với họ, và sau đó hành động dựa theo cách thức định hình của cá nhân họ (personal formulations) (May, 1977).

Cách mô tả của May về mối liên hệ tự thân (self-relatedness) thì được phân biệt với cách một người trở về với bản chất của mình. Đó là “khả năng của một người đứng ra ngoài chính mình, biết mình vừa là chủ thể vừa như là đối tượng của trải nghiệm, xem bản thân mình như là một thực thể mà chính mình đang tác động trong thế giới của các đối tượng” (May, 1967, tr. 75).

Con người có thể xem xét thế gian và chúng ta cũng có thể xem xét bản thân; việc xem xét và liên hệ tự thân hoặc ý thức về bản thân cho phép con người thoát khỏi thuyết tất định (determinism) và những ảnh hưởng cá nhân đối với những gì chúng ta làm. Ý thức về bản thân có thể mang lại cho chúng ta sức mạnh để đứng ngoài “chuỗi kích thích và phản ứng” cứng nhắc để tạm dừng lại và bằng cách tạm dừng lại đó có thể để gác một số gánh nặng sang một bên, có thể sắp xếp lại một số quyết định và những gì mà mình sẽ đảm nhận lấy trách nhiệm (May, 1953).

Theo cảm nhận của May về hai nhà tâm lý học Skinner và Rogers, ông cảm thấy rằng họ đã nhấn mạnh một trong hai mặt của tình thế lưỡng nan này, nhưng phải đổi lại bằng những thứ khác. Skinner đã tránh né tính chủ quan của những trải nghiệm. May thì cảm thấy rằng con người không phản ứng với trải nghiệm bên trong của họ về môi trường bên ngoài, mà họ xem xét môi trường bên ngoài dựa theo những kinh nghiệm trong quá khứ của họ và họ giải thích nó bằng các thuật ngữ biểu tượng của riêng họ về niềm hy vọng và nỗi sợ hãi (May, 1967).

Mô tả của May về sự chủ định (hoặc “ý định” - intentionality – một thuật ngữ triết học, chỉ hoạt động của tâm trí hướng về một/vài đối tượng bên ngoài – ND) hàm nghĩa là tất cả các hoạt động tâm trí đều hoàn toàn có tính chủ quan về cách thức nó được dự định hoặc cách nó liên quan đến các sự kiện từ bên ngoài của một người. Một ví dụ được đưa ra ở đây là: tình yêu là một trải nghiệm chủ quan nhưng người ta phải yêu một ai đó. Nhận thức là một trải nghiệm chủ quan, nhưng người ta phải nhận thức về một điều gì đó (May, 1969).

TẦM QUAN TRỌNG CỦA HUYỀN THOẠI

May (1991) tin rằng huyền thoại (Myth) là cách để tạo ra ý nghĩa trong một thế giới vô nghĩa, và là một mẫu hình tường thuật mang lại ý nghĩa cho tồn tại xã hội (Nguyên văn: “myth is the way of making sense in a senseless world, and is a narrative pattern that gives the significance to the society of existence”), các vấn đề trong xã hội như sự sùng bái, nghiện ma túy, tự tử và trầm cảm được bắt nguồn từ việc thiếu những huyền thoại có thể cung cấp cho các cá nhân một cảm giác an toàn bên trong của họ.

Lo âu và cảm giác tội lỗi

May thực sự quan tâm đến nỗi lo âu và tội lỗi của con người; ông bác bỏ cách giải thích của Freud về sự lo âu như là kết quả của những xung đột giữa nhu cầu sinh học của một người và nhu cầu của xã hội. May cảm thấy rằng phân tích của Freud quá dựa trên yếu tố sinh học và chia tách tâm trí ra các phần khác nhau (too biological and compartmentalized) và Freud chỉ xem sự lo âu như là kết quả của sự xung đột giữa các thành phần cái Ấy, cái Tôi và cái Siêu Tôi, nhưng thay vào đó May đã đồng thuận với định nghĩa hiện sinh của Kierkegaard vì lý thuyết của Kierkegaard về sự tự do và nỗi lo âu của con người luôn đi đôi với nhau.

Lo âu bình thường (normal anxiety) là khi một người trải qua nỗ lực mở rộng ý thức của mình hoặc khi các giá trị mới đến thay thế cho những giá trị cũ bởi vì có những thay đổi trong hoàn cảnh sống của con người và nó là một phần không thể thiếu của sự phát triển lành mạnh, lý thuyết của May cho rằng tất cả tình trạng gia tăng lo âu đều được tạo nên bởi sự đầu hàng của các giá trị quá khứ (Nguyên văn: “all growth of anxiety is the creation of surrender past values”) (May, 1967).

Lo âu nhiễu tâm (neurotic anxiety) là khi một người không đáp ứng được sự lo âu bình thường của họ vào thời điểm khủng hoảng thực sự trong quá trình phát triển của họ và những mối đe dọa cho các giá trị của họ, qua đó lo âu nhiễu tâm xuất hiện như là kết quả của sự lo âu bình thường trước đó chưa được đáp ứng (May 1967). Theo hiểu biết của tôi (tác giả) về lý thuyết về lo âu của May, là khi một người đang gặp vấn đề, nhưng vấn đề không quá lớn và có thể được giải quyết thì nỗi lo âu đó là bình thường. Ví dụ, khi đến lúc viết bài, sự lo lắng bình thường của tôi bắt đầu xuất hiện và tôi bắt đầu cảm thấy khó thở và sau đó thấy khó tập trung và rồi tôi phải đi ra ngoài một chút để thư giãn. Lo âu nhiễu tâm là khi một người có vấn đề và không thể kiểm soát cảm giác của mình, rồi bắt đầu nghĩ rằng cuộc sống sẽ trở nên không còn tốt đẹp đối với họ, họ có thể bắt đầu trở nên trầm uất, cảm thấy cô đơn, không làm được chuyện gì trong đời sống, nhưng tất cả cũng còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh mà người ấy đang trải qua.

BỐN MÔ TẢ CỦA MAY VỀ TÌNH YÊU - SEX, EROS, PHILIA & AGAPE:

Tình dục (Sex) là động cơ sinh học có thể được thỏa mãn bằng cách tham gia vào quan hệ tình dục, giống như ăn có thể thỏa mãn cơn đói, cả hai đều có thể được kích hoạt bởi nhu cầu và sự sẵn có của đối tượng để thỏa mãn nhu cầu (May, 1969).

Một trong số các vị thần daimons quan trọng là thần ái tình Eros, mà đối với May là tình yêu chứ không phải tình dục, và trong thần thoại Hy Lạp là một vị thần nhỏ mang hình hài là một chàng trai và sau đó Eros đã chuyển thành một thần tình yêu bé nhỏ thường gây khó chịu (annoying little cupid). May hiểu rằng tình yêu là nhu cầu của con người, trong đó một người phải cùng với một người khác để trở thành “một” và được qui về một câu chuyện cổ Hy Lạp được kể bởi Aristophanes, rằng con người ban đầu là một sinh vật bốn chân, bốn tay và có hai đầu; và con người trở nên tự hào khi các vị thần đã tách con người ra thành hai, một nam và một nữ, và thao chúng ta như một lời nguyền với lòng khát khao bất tận muốn phục hồi lại nửa phần thân đã bị mất - theo May, giống như bất kỳ tiểu thần daimon nào, Eros cũng là một điều tốt cho đến khi nó “chiếm lấy” nhân cách và khiến người ta bị ám ảnh bởi nó. Cũng có thể tin rằng lý thuyết về ý chí (theory of will) là một khái niệm quan trọng khác và đó là khả năng một người tổ chức cuộc sống của họ để đạt được mục tiêu của họ và chính ý chí đó cũng là một daimon có thể có tiềm năng “tiếp quản” một người (take over a person). Một định nghĩa khác về ý chí là khả năng biến một ước nguyện trở thành hiện thực. (Boeree, C. George, 1998, 2006)

Philia là mô tả thứ ba về tình yêu - là tình bạn hoặc tình anh em.

Philia: Là một trong 4 từ chỉ về tình yêu trong tiếng Hy Lạp cổ: philia, storge, agape và eros. Trong bộ sách Nicomachean Ethics của Aristotles, “philia” thường được dịch là “tình bạn” hoặc “tình yêu thương” – Đối nghĩa với “phobia”, nghĩa là “sợ” – Chú thích của ND.

Theo May, Eros không thể tồn tại lâu nếu không có Philia vì sự căng thẳng sẽ là quá lớn do sự hấp dẫn và đam mê liên tục (May, 1969). Philia là sự thư thái trước sự hiện diện của người mình yêu và chấp nhận bản thể của người kia; nó chỉ đơn giản là thích ở cùng với người kia, thích an yên với người kia, thích nhịp điệu bước đi, giọng nói, toàn bộ con người của người kia.

Agape là kiểu yêu thương thứ tư, mà theo May (1969), là sự quan tâm vô vị lợi đối với người bạn đời của mình và là khía cạnh của tình yêu vô điều kiện.

MỘT KHOA HỌC MỚI VỀ CON NGƯỜI

Theo May, một cách tiếp cận của nghiên cứu về bản chất con người, không nên chỉ giới hạn trong các lĩnh vực như: tập hợp các thói quen, chức năng não, các đặc điểm được xác định về mặt di truyền, trải nghiệm ban đầu hoặc các sự kiện môi trường - tất cả những gì cần thiết cho khoa học về con người đều phải dựa trên đặc trưng bản thể học (ontological characteristic) của con người và rằng khoa học cần xem xét đến quyền tự do của con người và tầm quan trọng của những trải nghiệm hiện tượng học của họ, việc sử dụng các biểu tượng và huyền thoại cũng như khả năng đưa ra quyết định của quá khứ, hiện tại và tương lai – tất cả quá trình này đều phải được xem trọng.

Những nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện bởi hầu hết các nhà lý thuyết hiện sinh đều không quan tâm đến tính chính xác thực nghiệm (empirical validation) của các khái niệm của họ. Họ tin rằng nơi xác nhận các khái niệm của họ chính là khi diễn ra cuộc sống thường ngày, hoặc trong những tình huống trị liệu, chứ không phải trong phòng thí nghiệm vận hành tự động hoặc trong những môi trường làm khảo sát. Theo Van Kaam (1966), một nhà tâm lý học hiện sinh đã tóm tắt quan điểm này như sau: “Những loại trải nghiệm như trách nhiệm, khiếp sợ, lo âu, tuyệt vọng, tự do, tình yêu, ngạc nhiên hay sự quyết định, không thể được đo lường hoặc thử nghiệm; chúng đơn giản ở đó và chỉ có thể là giải thích trong sự cho sẵn của chúng” (Van Kaam, 1966). (Nguyên văn: “Experience such as responsibility, dread, anxiety, despair, freedom, love, wonder or decision cannot be measured or experimented with, they are simply there and can only be explicated in their givenness”).

May không bác bỏ ý tưởng nghiên cứu khách quan về con người, mà chỉ cảm thấy rằng phương pháp luận khoa học truyền thống là không phù hợp, nhưng ông cảm thấy, điều cần thiết phải có đó là một cách tiếp cận nghiên cứu con người những sinh thể mang tính toàn thể, phức tạp và độc nhất. Nhiều ngành khoa học hoan nghênh ý tưởng của Mays về việc phát triển một khoa học phù hợp hơn trong việc nghiên cứu về con người và không dựa trên các giả định và kỹ thuật của khoa học tự nhiên (Hergenhanh & Olson, 2007).

PHẦN KẾT LUẬN

Học thuyết về nhân cách của Rollo Reese May rất có tính truyền cảm hứng, với tư cách là một nhà tâm lý học, ông coi mọi người như những con người chứ không chỉ như là những đối tượng thực nghiệm. Các lý thuyết của ông giải thích về các loại lo âu khác nhau và ý nghĩa của chúng trong bản chất con người, ông cũng giải thích sự khác biệt của tình yêu và ý chí đạt đến mục đích. Tôi (tác giả bài tiểu luận) cảm thấy rằng May Reese Rollo, thực sự quan tâm đến mọi người và khi ông mắc bệnh lao, ông thấy cần cho mọi người hiểu về cái chết và ý nghĩa của cái chết, và rằng mọi người cũng không nên sợ nó, bởi vì một ngày nào đó chúng ta sẽ rời khỏi thế gian này và cũng không nên sợ hãi đối với từ “cái chết”. Tôi nhớ đã nói với mẹ mình rằng tôi sợ già và sợ chết và tôi không hiểu tại sao mình lại cảm thấy như vậy, nhưng khi lớn lên và nhận ra rằng một ngày kia, chúng ta sẽ rời khỏi thế gian này vậy nên chúng ta vui hưởng phần đời còn lại. Đừng lo lắng về cái chết và Thượng Đế sẽ biết khi nào chúng ta cần phải rời đi…


TRẢI NGHIỆM CHƠI TRÊN KHAY CÁT - Phần 2

BS NGUYỄN MINH TIẾN

TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA CLB TRĂNG NON (Tháng 10-2015 - Bổ sung Tháng 9/2021)


Khay cát được dùng trong huấn luyện tại CLB Trăng Non - 2015


Xem lại Phần 1

Phần 2

MINH HỌA TRƯỜNG HỢP

Trường hợp 1

L. là một cô gái 31 tuổi, chưa có gia đình và là giáo viên dạy tiếng Anh ở một trung tâm ngoại ngữ. Cô mô tả đời sống của bản thân từ trước đến nay là khá thuận lợi, sinh ra trong một gia đình khá giả, có một người em trai, và việc học tập suông sẻ. Cô đến Trăng Non tìm kiếm sự giúp đỡ khi cảm thấy đời sống trống vắng, vô vị và gần đây thường tự hỏi sống để làm gì mà bản thân cô cũng không biết phải làm gì nữa.

Vào buổi gặp đầu tiên, cô cho biết mình mới vừa nghỉ dạy tiếng Anh ở trung tâm vì cảm thấy công việc không còn hứng thú nữa. Cô muốn dành một khoảng thời gian thư thả để đi đây đi đó, có thể là du lịch hoặc đi theo các đoàn làm công việc thiện nguyện chẳng hạn. Cũng trong buổi đầu tiên, cô cũng kể về chuyện tình cảm của mình. Cô có nhiều mối quan hệ với các bạn trai mà cô gặp ở nhiều hoàn cảnh khác nhau. Trong đó có một người mà cô nói rằng “quan hệ khá xa, vượt qua giới hạn tình bạn”. Nhưng cô không hiểu vì sao trong cả quá trình thân quen đó, cô không hề nghĩ đến việc tiến đến xa hơn như hôn nhân chẳng hạn, rồi đến một hôm nọ, cô cảm thấy e ngại, và cô quyết định lãng tránh dần chàng trai đó. Họ chia tay cũng nhẹ nhàng và chẳng ai ràng buộc ai sau đó cả.

Mặc dù được hỏi gợi mở, nhưng cô không kể nhiều về gia đình gốc của mình. Tôi chỉ biết cô có một gia đình êm ả, nhưng với người thân thì cô rất ít khi trò chuyện. Từ lúc còn học cấp ba, cô đã thích rời gia đình và sinh hoạt với bè bạn bên ngoài nhiều hơn. Khi ra trường, dù độc thân nhưng cô sống trong một căn hộ riêng chứ không sống chung với bố mẹ. Với học lực khá, cô tự tìm kiếm việc làm sau khi ra trường, và đến lúc nghỉ việc cô vẫn có đủ khả năng tài chính để xoay trở trong lúc thu nhập đã ngưng.

Trong buổi làm việc đầu tiên, cô chỉ muốn nói nhiều, có vẻ không lưu tâm nghe những hồi âm của tôi. Vài lần cô nêu ý kiến hơi ngờ vực những người làm tâm lý (!). Cô nói chỉ muốn tìm người để chia sẻ những gì cô nghĩ chứ chưa cần tìm kiếm một giải pháp gì cụ thể vào lúc này.

Sau một tuần, cô xin hẹn buổi gặp thứ hai. Cô kể rằng có một đoàn công tác từ thiện sắp đi giúp đỡ người nghèo và cô dự định sẽ đi theo do lời mời của một người bạn trong đoàn. Cô tự hỏi không biết có nên nhận lời không và liệu chuyến đi ấy có giúp cô nhận ra điều gì không? Câu chuyện trong buổi thứ hai có lúc quay về với chủ đề những mối quan hệ tình cảm cũ. Cô nhận ra rằng dường như cô e ngại tiến xa trong các mối quan hệ thân thiết, chỉ có thể hiểu nhau đến chừng mực nào đó thôi chứ nếu tiến xa hơn thì cô không muốn. Nhiều lần, cô tự nhận mình có ngoại hình không đẹp, mặc dù (theo thiển ý của riêng tôi) thực tế có phần ngược lại. Cô nói thêm về dự định sẽ tham dự những lớp học thêm về nấu ăn hay cắm hoa chẳng hạn. Và tôi có cảm giác như cô nói chỉ để nói chứ chưa thật sự quyết định gì cả.

Cả buổi 1 và buổi 2 đều diễn ra theo kiểu L. muốn nói và tôi thì chỉ cần ngồi nghe. Cuối buổi, khi tôi hỏi về các ý định và kế hoạch sống của L. trong thời gian sắp tới, cô nói mình vẫn chưa quyết định gì cả. Tôi đề nghị nếu L. cần nói chuyện thêm trong buổi thứ 3 thì chúng tôi sẽ thực hành những trải nghiệm bằng khay cát. Tôi giới thiệu phương tiện và cách làm, L. suy nghĩ một chút và nhận lời đồng ý về buổi gặp thứ 3 ấy.

Buổi thứ 3 diễn ra sau 2 tuần. L. cho biết cô đã có một chuyến đi với đoàn từ thiện trong vài ngày. Cô có dịp nói chuyện, giao lưu với nhiều người, làm nhiều việc và đi nhiều nơi, nhưng “cũng thấy bình thường, không biết mình như vậy là có vui hay không”. Tôi đã chuẩn bị sẵn khay cát và các dụng cụ, nên đề nghị L. thử thể hiện và trải nghiệm.

Trên khay cát, L. thể hiện cảnh về một khu nhà có vườn cây xung quanh với những con người thân thiện. Tại đó có một cặp vợ chồng sinh sống yên lành, thư giãn với công việc nuôi thú và chăm sóc cây cảnh. Khu nhà cách xa chốn thành thị một chút để có không gian yên tĩnh, nhưng không quá xa như vùng nông thôn. Cặp vợ chồng thích sự thư nhàn, yên tĩnh, nhưng vẫn cần một nơi có cuộc sống tiện nghi đầy đủ. L. nói rằng đây là cảnh tượng mà cô vẫn thường tưởng tượng về tương lai của cô và có lần cô đã nói lên ý này với người bạn trai mà cô đã chia tay. Tuy nhiên, đó chỉ là câu chuyện kể có tính tưởng tượng chứ không thực sự là một mong muốn hoặc một kế hoạch thực tế giữa cô và người bạn trai ấy. 





Quang cảnh trên khay cát: Hình trên là cảnh khu nhà vườn xa nơi đô thị với con người thân thiện và an nhàn - Hình dưới vẫn là cảnh trên nhưng có thêm một cô gái xuất hiện và một con đường mới được tạo để làm lối dẫn đến làng

(Nguồn: CLB Trăng Non)

Đặc điểm nổi bật được thấy trong cảnh diễn của L. trên khay cát đó là: cảnh diễn chỉ chiếm một nửa bên của khay cát, nửa còn lại là phần cát để trống, mà ban đầu L. giải thích là khoảng cách giữa khu nhà ở với chốn thành thị ồn ào. Tôi đặt cho cô một câu hỏi quan trọng “Làm thế nào để có thể đến được khu nhà này?” L. suy nghĩ lưỡng lự một chút rồi hờ hững đặt một vài thanh nhựa nhỏ lên cát “có thể có một con đường ở chỗ này”.

Tôi trình bày ý nghĩ của mình với L. “Làm sao để có thể đến được khu nhà này nếu không có đường đi dẫn đến đó, cũng giống như làm thế nào để một ý tưởng về tương lai có thể đạt đến nếu ta không có một kế hoạch để biến nó thành hiện thực”. Lần đầu tiên trong cả ba buổi làm việc L. có vẻ im lặng và suy nghĩ nhiều. Một cách trình bày như thế thường ít khi áp dụng khi làm việc với trẻ em và vị thành niên, vì các trao đổi chỉ nên thực hiện trong phạm vi cảnh diễn có tính ẩn dụ hơn là có ngay những liên hệ giữa nội dung cảnh diễn với hoàn cảnh thực tế. Nhưng trong trường hợp của L., một người trưởng thành và không có nhiều những sự kiện thực tế khó khăn hoặc đau buồn, thì một liên hệ kiểu như thế thực sự lại giúp cho cuộc làm việc giữa tôi và L. có thể chuyển tiếp sang một khúc quanh. Cô bắt đầu suy nghĩ và nói ra những cảm nhận mà cô đang thực sự cảm thấy, những nỗi lo ngại về các mối quan hệ, về sự khó khăn trong giao tiếp với người thân, và sau cùng cô nói rằng cô sẽ suy nghĩ kỹ về những công việc và kế hoạch sống trong tương lai sắp tới của mình.

Trường hợp 2

H. là một bé gái 8 tuổi, là con của một cặp vợ chồng vừa ly hôn một thời gian ngắn mới có vài tháng. Bé sống với mẹ và được mẹ dẫn đến Trăng non yêu cầu giúp đỡ vì bé gần đây có những biểu hiện lo lắng, buồn bã, hay khóc. Mẹ là một phụ nữ trí thức ngoài 30 tuổi, vẫn còn đang trong giai đoạn buồn bã sau ly hôn. Cô đã đến gặp một chuyên viên tham vấn để yêu cầu giúp đỡ về tâm lý của cá nhân cô, sau đó, do sự giới thiệu của chuyên viên này mà cô đã dẫn bé H. đến gặp tôi để giúp đỡ tâm lý cho bé. Tôi hẹn gặp buổi đầu tiên chỉ làm việc với bố mẹ với mục đích tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và rồi sẽ chuẩn bị cho cuộc gặp thứ 2 có cả H. lẫn bố mẹ cùng đến.

Trong buổi đầu tiên, câu chuyện hôn nhân giữa bố mẹ được trình bày, nhưng sau đó người mẹ chuyển trọng tâm thông tin sang những nỗi bận tâm về bé H. Mẹ cho biết nhiều ngày gần đây bé hay khóc, nói với mẹ về những cảm giác sợ hãi và chỉ yên tâm khi có mẹ bên cạnh. Người bố trong buổi làm việc thường chỉ ngồi yên lặng; khi được hỏi ý kiến về tình trạng của con, bố nói “tôi thấy bé bình thường”, “mẹ ở gần cháu hơn tôi nên biết rõ cháu hơn”... Bố không nói nhiều, chỉ ngồi đợi nghe câu hỏi rồi để cho mẹ kể chuyện. Tôi trình bày ý kiến của mình về những khó khăn mà bé H. có thể gặp phải khi bố mẹ chia tay và đề nghị bố mẹ đưa bé đến trong buổi làm việc kế tiếp sau khoảng vài ngày. Họ đã đồng ý. Sau này, qua trung gian chuyên viên tâm lý kia, tôi mới biết chuyện bố có mối quan hệ khác ở bên ngoài hôn nhân.

Buổi thứ hai, H. được bố mẹ đưa đến. Trước tiên H. muốn làm việc riêng với tôi trong phòng chơi, sau đó mới làm việc chung với bố mẹ. Trong phòng chơi, tôi bày khay cát cùng các dụng cụ và khi được đề nghị, H. đồng ý tham gia hoạt động với khay cát. Mất khoảng 20 phút, H. trình bày một cảnh chơi về một ngôi làng bình yên, có những ngôi nhà, cây cối mọc quanh nhà, những con người đi lại trò chuyện với nhau, những vườn hoa, chuồng thú... Trong khay cát, có cảnh một bé gái đứng trước một ngôi nhà nhỏ, bên trong nhà bày hai chiếc ghế trống, còn cô bé thì đứng nhìn vào bên trong nhà. Phía ngoài có một con đường dẫn đến đầu cổng làng, có một khúc quanh của đường trước khi dẫn vào làng, bên cạnh đường có bảng chỉ dẫn lối vào. Rồi H. thêm vào cảnh diễn một đoàn quân đi từ ngoài theo con đường dẫn đến đầu làng, có những người lính vào làng để bảo vệ, và những người lính khác thì đứng dọc hai bên đường dẫn vào làng. Cuối cùng, H. tạo một tình tiết kết thúc cho cảnh diễn, đó là: Một người đàn ông dẫn một con ngựa đi bộ dọc theo con đường dẫn đến làng và đứng lại ở trước cổng làng.


  


Quang cảnh “ngôi làng bình yên”



Cô bé nhìn vào ngôi nhà với hai chiếc ghế trống (ở tầng trên)




Cảnh diễn sau cùng: Người đàn ông dẫn ngựa đến trước cổng làng. Hai bên đường rất nhiều  lính gác.
(Nguồn: CLB Trăng Non)

Khi H. thực hiện xong cảnh diễn, bố mẹ (nãy giờ vẫn ngồi chứng kiến H. tạo cảnh) đã được mời vào cùng dự buổi chơi và nghe H. nói về cảnh diễn. Sau đó, bố mẹ cũng được yêu cầu chia sẻ ý kiến. Mỗi người được yêu cầu đặt cho cảnh diễn một tên gọi theo chủ đề mà mình cho là quan trọng. Bố cho cái tên “Hoàng hôn”, mẹ nói “Ngôi làng bình yên”. Còn H. thì cứ phân vân không chọn lựa được chủ đề nào để đặt tên cả. Tuy vậy, điều quan trọng là lúc đó, cả 3 người: bố, mẹ và H. đều có dịp để cùng lúc ghi nhận và chia sẻ ý kiến về cảnh diễn mà H. đã tạo.

Khi được hỏi về tâm trạng và cảm nhận khi chơi với khay cát, H. cho biết em thấy thoải mái, mặc dù em tỏ vẻ bẽn lẽn và không nói gì thêm cả. Lúc đó, tôi bắt đầu chia sẻ những điều mà tôi nhận thấy trên khay cát: Cảnh quan về một ngôi làng yên bình, những con người thân thiện, cô bé đứng bên ngoài nhìn vào ngôi nhà trống vắng, cảnh những người lính đứng bảo vệ ngôi làng và cảnh người đàn ông trở về. Tôi có cảm nhận rằng hai chi tiết cô bé đứng nhìn ngôi nhà và người đàn ông trở về dường như gây được chú ý của bố và mẹ. Cả hai ngồi gần bên bé H. và họ có những cử chỉ xúc chạm nhẹ nhàng với H., mắt nhìn vào bé. Tôi nói cho H. biết rằng em đã thể hiện rất tốt khi tham gia hoạt động chơi với khay cát và hỏi “em có sẵn sàng trở lại và trò chuyện thêm ở những buổi sau hay không?”. H. gật đầu. Buổi thứ hai kết thúc và tôi hẹn gặp cả hai bố mẹ vào một buổi thứ ba một tuần sau đó.

Trong buổi thứ ba, bố mẹ đến cùng lúc. Họ có vẻ gần gũi nhau hơn khi ngồi trò chuyện với tôi, kể cả những ánh nhìn lẫn những xúc chạm. Họ có vẻ như thể là một cặp vợ chồng mới làm lành sau khi giận nhau, dù trong thực tế họ đã ly hôn. Tôi thông báo lại những gì mà tôi nhận định được sau buổi làm việc thứ hai. Tôi chia sẻ giả thuyết về những nỗi buồn và lo lắng của H. có thể do sự hoang mang của bé sau khi bố mẹ chia tay, nỗi lo mất mát tình thương từ bố mẹ, cùng với niềm mong mỏi từ trong thâm tâm muốn bố quay trở về. Tuy nhiên, tôi cũng chia sẻ ý nghĩ của tôi rằng thực tế bố mẹ đã chia tay, những gì mà trong thực tế đời sống hôn nhân của bố mẹ hẳn phải có những lý do khiến cho họ có một quyết định như thế mà H. thì không thể hiểu được. Tôi trao đổi với họ về những gì mà cha mẹ có thể làm với đứa con còn nhỏ tuổi của họ sau khi chia tay, về những khó khăn mà trẻ phải gánh chịu và phải dung nạp dần dần, và điều khó khăn mà một cặp vợ chồng phải đương đầu sau khi ly hôn – “Họ không còn là vợ chồng nhưng vẫn còn là cha mẹ của con họ. Và họ có cùng nhiệm vụ giúp con vượt qua giai đoạn thử thách này”.

Người bố lần này cũng bắt đầu chia sẻ ý kiến nhiều hơn. Anh nói mình đã không quan tâm đủ đến con, chưa hiểu những khó khăn của bé và sẽ chú ý gần gũi bé hơn sau này. Mẹ thì có ý thông cảm với bố, tuy đang khóc nhưng cũng nói lời khuyến khích chồng mình nên thường xuyên đến thăm và nói chuyện với H. nhiều hơn. Không có dấu hiệu chỉ trích hoặc quy lỗi giữa họ với nhau. Đột nhiên, khi đang nói về chủ đề kỹ năng chăm sóc con cái sau ly hôn, người mẹ chợt phát biểu một liên tưởng của cô về tuổi thơ của mình, một tuổi thơ mà cô nói là gắn liền với nỗi buồn khổ của mẹ mình (bà ngoại của H.). Cô nói rằng mẹ cô đã sống một cuộc đời nhẫn nhịn, chịu đựng trong hôn nhân với chồng (ông ngoại của H.), và cô không muốn sống giống như thế. Rồi cô chợt thấy mình đã từng cố gắng làm khác với mẹ, để không chịu đựng trong hôn nhân giống như mẹ. Cô cho biết mình từng trải qua những đợt trầm cảm và nhiều lúc không còn tập trung quan tâm chăm sóc con mình.

Cuộc làm việc trên khay cát với bé H. phần nào tạo được một khúc quanh chuyển biến trong cách nhìn của bố mẹ của bé H. vì cả hai đều có dịp nhìn lại cuộc hôn nhân của họ, những trách nhiệm của họ. Đối với H., cuộc làm việc đã góp phần giúp tạo lập sự quân bình cảm xúc của bé, một phần là do những giải bày của bé qua trung gian cảnh diễn có tính ẩn dụ đã được nhiều người lớn ghi nhận và hiểu, một phần quan trọng hơn là bé có dịp được ở gần bên cạnh cả bố lẫn mẹ để nói chuyện về các chủ đề mà chính bé nêu ra. Khúc quanh trong trị liệu cũng xảy đến ở người mẹ khi mà từ chuyện của bé H. mà mẹ có dịp nhìn lại tuổi thơ của chính mình, liên hệ hình ảnh người mẹ, người vợ nơi mẹ mình khi xưa với hình ảnh người mẹ, người vợ trong chính bản thân mình hôm nay, liên hệ những nỗi buồn của mẹ mình khi xưa với những tâm trạng khó khăn của mình hiện nay. Một điều quan trọng khác cũng xảy ra trong buổi làm việc lần thứ ba ấy là người bố đã hiện diện, lắng nghe và hiểu hơn câu chuyện của người mẹ.

Tôi không tiếp tục làm việc với cặp vợ chồng này thêm sau đó, vì người mẹ của H. là thân chủ của chuyên viên tâm lý mà tôi đã nêu ở trên. Cô trở về tiếp tục quá trình trị liệu với chuyên viên ấy với nhiều chủ đề mới nay đã bắt đầu mở rộng ra thêm – Một quá trình tìm hiểu và khám phá bản thân đầy gian nan và cũng cần đến sự can đảm rất nhiều.

KẾT LUẬN

Trong cả hai trường hợp mà chúng tôi trình bày để minh họa trên đây, việc sử dụng khay cát có vai trò như một đòn bẩy, một bước chuyển để thúc đẩy tiến trình trị liệu đi tới hoặc để mở rộng tầm nhìn hoặc tạo khúc quanh trong cách nhìn của thân chủ về bản thân cũng như về cuộc sống của họ.

Trong trường hợp của L., cô gái 31 tuổi đã có dịp trải nghiệm lại những ước muốn và sự mơ hồ trong kế hoạch cuộc sống của bản thân mình. Cô bắt đầu nhìn lại cuộc sống của mình một cách có trách nhiệm hơn, dẫu rằng ở thời điểm đó trở đi vẫn còn nhiều việc khó khăn đang chờ đợi cô ở phía trước.

Trong trường hợp thứ hai, bé H. không chỉ có cơ hội trải nghiệm được sự giảm nhẹ cảm xúc mà bé còn có dịp cải thiện các mối quan hệ quan trọng xung quanh bé: quan hệ giữa bố mẹ với bé và quan hệ giữa bố mẹ với nhau sau ly hôn, đặc biệt cuộc làm việc còn giúp bố mẹ trải nghiệm và giải bày các vấn đề trong cuộc sống của chính họ.

Trong cả hai trường hợp, việc ứng dụng sự trải nghiệm với khay cát không có mục tiêu giải quyết một vấn đề cụ thể nào trong cuộc sống thực tế của thân chủ, mà mục tiêu chính là giúp thân chủ khám phá và thấu hiểu hơn về cuộc sống của bản thân. Khay cát là một công cụ giúp thể hiện và trải nghiệm; nó được lựa chọn khi có sự bế tắc hoặc khó khăn trong giải bày cảm xúc cũng như trong đối thoại; nó không thay thế cho những công cụ khác trong tâm lý liệu pháp nói chung và cũng không có vai trò quyết định hoặc kết thúc tiến trình trị liệu.

Cũng như đối với nhiều loại công cụ khác trong tâm lý liệu pháp, việc lượng giá hiệu quả của khay cát cũng dựa trên những chỉ báo có tính chủ quan và định tính. Trong hai trường hợp minh họa nêu trên, các chỉ báo ấy có thể kể ra bao gồm: thân chủ chú tâm khám phá các trải nghiệm cảm xúc của bản thân, chủ động tham gia vào việc giải bày nội tâm qua các hình ảnh ẩn dụ, thân chủ đối thoại về các ý nghĩa của những chủ đề được trình bày qua các hình ảnh ấy, đối thoại với nhà trị liệu về cuộc sống của bản thân một cách có trách nhiệm, và đồng thời không thể hiện bất kỳ biểu hiện nào của sự phòng vệ hoặc phản kháng, không có sự chỉ trích hoặc quy lỗi cho hoàn cảnh và người khác. Hiệu quả của việc sử dụng khay cát trong hai trường hợp minh họa cũng được nhận thấy thông qua việc nó thúc đẩy tiến trình thay đổi vẫn tiếp diễn cả trong những phiên trị liệu cũng như trong đời sống bên ngoài, bước đầu có thể thay đổi về cách nhìn, về tâm trạng và rộng ra hơn là cải thiện các mối quan hệ và chất lượng đời sống.

Ngoài những áp dụng khay cát như một công cụ trị liệu tâm lý, chúng tôi cũng sử dụng khay cát để giúp những người học tâm lý lâm sàng tại Trăng Non có cơ hội trải nghiệm và khám phá bản thân. Những cảm xúc có thể rất sống động khi tạo cảnh, y như đang trải nghiệm một cảnh sống thực. Trong cảnh diễn ấy, sự phân định giữa cảnh chơi và cảnh đời, giữa cảnh ảo và cảnh thực đôi khi không còn cần thiết nữa…




HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...