2 bài viết về GIÁM SÁT
(SUPERVISION)
BS NGUYỄN MINH TIẾN dịch và tổng hợp
Bài
1 - VIỆC GIÁM SÁT TRONG THAM VẤN VÀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ
Counselling and Therapy
Supervision
Nguồn: Counseling Resource – Updated 27/4/2019
Tác giả: Dr GREG MULHAUSER, Managing Editor
Việc giám sát có ý nghĩa như thế nào trong
tham vấn và trị liệu tâm lý? Vì lợi ích cả của những thân chủ lẫn của những
chuyên viên hành nghề, hầu hết các tổ chức ngành nghề về tham vấn và trị liệu đều
đòi hỏi các thành viên của mình phải kết hợp việc giám sát vào trong việc thực
hành lâm sàng của họ.
THẾ
NÀO LÀ “GIÁM SÁT”?
Làm việc dưới sự giám sát có nghĩa là một
chuyên viên tham vấn hoặc một nhà trị liệu tâm lý sử dụng các dịch vụ của một
chuyên viên tham vấn hoặc một nhà trị liệu tâm lý khác để xem xét lại công việc
mà mình đã làm với thân chủ, cũng như sự phát triển nghề nghiệp và thường là cả
sự phát triển cá nhân của mình nữa. Giám sát là một dịch vụ có tính nghiệp vụ
chứ không phải là một vai trò về mặt quản lý. Đối với những chuyên viên tham vấn
làm việc trong những tổ chức, hai công việc giám sát và quản lý sẽ phải được
tách biệt hoàn toàn. Chuyên viên giám sát có vai trò không như những “ông sếp”,
mà như những cố vấn. Một số người sử dụng
cách thức giám sát nhóm (group supervision), trong đó một vài nhà trị liệu cùng
ngồi lại bàn bạc với nhau về công việc của họ, mặc dù cách làm này thường được
làm để bổ sung, chứ không thay thế hẳn, việc giám sát cho từng cá nhân.
AI
CẦN GIÁM SÁT?
Tất cả các chuyên viên tham vấn và trị liệu
tâm lý, bất kể kinh nghiệm nhiều hay ít, đều cần được giám sát. Không chỉ các tổ
chức ngành nghề đòi hỏi phải có giám sát, mà việc này còn được xem như là một
điều bắt buộc về mặt đạo đức. Một thân chủ tìm đến nhà trị liệu cần thận trọng
xem xét lại nếu như nhà trị liệu ấy làm việc mà không được giám sát.
VÌ
SAO CẦN GIÁM SÁT?
Việc giám sát được cần đến bởi hai lý do:
1. Để bảo vệ các thân chủ;
2. Để
cải thiện khả năng của nhà trị liệu trong việc phục vụ thân chủ
Việc giám sát giúp bảo vệ các thân chủ bởi có
sự dự phần có tính không thiên vị của một bên thứ ba vào công việc giữa nhà trị
liệu và thân chủ, giúp làm giảm thiểu nguy cơ của những sai sót nghiêm trọng và
giúp cho nhà trị liệu phản ảnh lại những cảm nhận, những suy nghĩ, hành vi cùng
cách thức tiếp cận của mình đối với thân chủ.
Khi có dịp phản ảnh lại cách thức quan hệ với
thân chủ, cũng như nhận được sự nội thị (insight) từ nhãn quan của một nhà trị
liệu khác, việc này cũng sẽ giúp cho người chuyên viên cải thiện được chất lượng
mà họ cung cấp cho thân chủ. Cũng tương tự như khi một nhà khoa học cần đến một
người đồng sự xem lại công trình khoa học của mình trước khi nó được công bố.
Ít có nhà khoa học chuyên nghiệp nào trông đợi công trình của mình được công bố
mà không để cho các đồng nghiệp của mình xem qua trước vì chất lượng của công
trình rõ ràng là sẽ tốt hơn nhiều.
VIỆC
GIÁM SÁT CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO ĐỐI VỚI TÍNH BẢO MẬT?
Thực hành giám sát có nghĩa là nhiều thông
tin chi tiết được cung cấp bởi thân chủ sẽ được chia sẻ cho những người khác
ngoài nhà trị liệu có liên quan. Tuy nhiên, tính bảo mật cho thân chủ nói chung
vẫn được giữ an toàn bởi vì:
1. Các thông tin để định dạng nhân thân đều
không được bộc lộ;
2. Các thông tin được chia sẻ trong khi giám
sát tự chúng cũng được bảo vệ bởi một thỏa thuận bảo mật và sẽ không được chia
sẻ ra bên ngoài buổi giám sát.
Nói cách khác, trong khi các thông tin chi tiết
về thân chủ mặc dù được chia sẻ trong mối quan hệ giám sát, vẫn không thể từ đó
bị lần ngược để biết được cụ thể thân chủ là ai, và những thông tin ấy thường
cũng không được chuyển tiếp ra bên ngoài mối quan hệ giám sát (một tình huống
có thể xảy ra đó là vị chuyên viên giám sát lại mang thông tin về thân chủ của
nhà trị liệu chia sẻ với chuyên viên giám sát của chính mình bởi vì giữa chuyên
viên giám sát và nhà trị liệu được giám sát bất đồng với nhau).
Mặc dù việc giám sát phải được thực hiện một
cách nghiêm túc về mặt đạo đức, một thân chủ vẫn thường có thể có những câu hỏi
về việc giám sát mà nhà trị liệu của họ nhận được. Họ có mọi quyền để đặt câu hỏi
về việc này và tất cả các nhà trị liệu đều phải trả lời chi tiết về việc giám
sát mà họ nhận được.
Bài
2 - TƯ TƯỞNG LÃO GIÁO VÀ CÔNG TÁC GIÁM SÁT TRONG TÂM LÝ TRỊ LIỆU
The Tao of Direction
Tác giả: JAY REEVE
Nguồn: PsychotherapyNet
Hầu hết công việc mà tôi (tác giả Jay Reeve)
làm ở bệnh viện là cung cấp chức năng giám sát về tâm lý trị liệu. Những người
được giám sát là một tập thể gồm nhiều thành phần bao gồm các thực tập sinh
(chuẩn bị cho học vị tiến sĩ) về tâm lý lâm sàng, các bác sĩ nội trú và nghiên
cứu sinh chuyên khoa tâm thần và các nhân viên khác có văn bằng tốt nghiệp cấp cử
nhân. Một cách tự nhiên, phong cách thực hiện việc giám sát của tôi thay đổi
tùy theo trình độ đào tạo của những nhân viên này. Các nghiên cứu sinh chuyên
khoa tâm thần có trình độ, những người vừa hoàn tất chương trình đào tạo nội
trú và đang theo đuổi chương trình đào tạo hậu tiến sĩ (post-doctoral) đôi khi
hơi lo lắng về môn tâm lý trị liệu ở những chuyện như: Kế tiếp phải nói gì? Làm
gì nếu như bệnh nhân “nổi dóa” đối với họ, vân vân và vân vân. Trái ngược lại,
cũng có những chuyên viên về môi trường trị liệu (milieu therapists), dù không
trải qua bất kỳ một đào tạo đại học nào cả, nhưng lại có thể thực hiện những
can thiệp trị liệu một cách đáng ngạc nhiên với sự sáng tạo và sâu sắc của
riêng họ. Không có cách nào có thể giúp ta làm rõ được việc một người sẽ trở
thành một nhà trị liệu như thế nào nếu chỉ dựa trên học vị và chương trình đào
tạo mà họ đã nhận được – một sự thật trái ngược với trực giác đã được phản ánh
trong các nghiên cứu cho thấy rằng ít có mối tương quan nào giữa việc đào tạo
nhà trị liệu (therapist training) với hiệu năng làm việc của nhà trị liệu
(therapist efficacy). Việc khó có thể tiên đoán được một sinh viên sẽ trở thành
một nhà trị liệu như thế nào đã là một phần của những điều thú vị liên quan đến
công việc của tôi – công việc của một chuyên viên giám sát lâm sàng.
Tuy nhiên, những sinh viên mà tôi thực hiện
giám sát có thể được chia thành hai nhóm với rất ít sự khác biệt liên quan đến
việc đào tạo và trình độ chuyên môn, nhưng lại có sự khác biệt về nhu cầu và mức
độ thoải mái của họ đối với công việc giám sát, cũng như sự khác biệt về cách cấu
trúc và tiến trình thực hiện giám sát. Sự khác biệt ấy cũng thể hiện sự khác
nhau về phong cách làm việc giữa các trường phái tâm lý trị liệu (vd. trường
phái tâm động học và CBT) cũng như sự khác nhau giữa các lĩnh vực chuyên môn
khác nhau (vd. giữa ngành tâm thần học và ngành công tác xã hội). Mặc dù có những
khác biệt được phân định theo các yếu tố văn hóa như trên, những nhà trị liệu từ
nhiều nguồn đào tạo khác nhau vẫn có thể được sắp xếp vào các những phân khúc
trong một hoạt phổ về cấu trúc – tiến trình (structure-process spectrum).
Một trong số những ví dụ cho những khác biệt
này được rút ra từ một khóa huấn luyện về kỹ năng khám hỏi tâm thần mà tôi cùng
đảm trách với một bác sĩ tâm thần chuyên về huấn luyện. Một số sinh viên đã phải
trải qua một thời gian khó khăn khi họ phải điều chỉnh kỹ thuật khám hỏi và chẩn
đoán của họ sao cho phù hợp với mức độ phát triển của các thân chủ của họ. Nói
cách khác, bạn thực sự không thể thực hiện một cuộc khám hỏi tình trạng tâm thần
“đúng tiêu chuẩn” với một đứa trẻ 6 tuổi và từ đó mong đợi thu thập được nhiều
dữ liệu. Mặt khác, trong khi một buổi chơi trị liệu với một đứa trẻ có thể cung
cấp một số lượng thông tin rất nhiều, mục đích đánh giá đứa trẻ sẽ không thực
hiện được nếu nó không được định hướng bởi một kế hoạch đánh giá rõ ràng và
toàn diện (xem xét các tương tác xã hội, đánh giá xem đứa trẻ có đang phản ứng
với các kích thích từ nội tâm hay không, sử dụng các trắc nghiệm theo thông lệ...).
Trong khóa huấn luyện, nhằm dạy cho sinh viên phương pháp tốt nhất để đánh giá
trẻ em, tôi và đồng nghiệp của tôi đã phải cân nhắc những gì mà các sinh viên cần
có để có thể thực hiện cách thức tiếp cận tốt nhất cho từng thân chủ. Đối với một
số sinh viên, họ cần phải rời bỏ sự bám víu vào cái “lịch sử bệnh lý hiện tại
và khám trạng thái tâm thần”, để có thể thực sự lắng nghe đứa trẻ và “bắt mạch”
được dòng chảy của những tâm trạng và các tương tác. Đối với một số sinh viên
khác, họ cần được hướng dẫn và có những công cụ rõ ràng để có thể nắm bắt được
ý nghĩa từ sự trình bày thường là rất hỗn độn của đứa trẻ. Những nhu cầu này thực
sự là rất khác nhau, những cả hai đều là trách nhiệm của chuyên viên giám sát
nhằm hiểu được và chú tâm đầy đủ vào từng học viên.
Trong bài viết này, tôi (Jay Reeve) sẽ vận dụng
triết lý của Lão Giáo Trung Hoa như một phép ẩn dụ để có thể hiểu được những
khác biệt đã nêu ở trên, đặc biệt là những khác biệt trong các phương pháp giám
sát lâm sàng. Theo triết lý truyền thống Trung Quốc, sự quân bình trong vũ trụ
được thể hiện tiêu biểu trong biểu tượng khá phổ biến của Lão Giáo: Một hình vẽ
về hai lực tương phản Âm (yin) và Dương (yang) với mặt căng tiếp xúc giữa hai lực
có tính cân xứng vừa bất biến vừa linh hoạt. Trong một đoạn của sách Đạo Đức
Kinh (Tao Te Ching), có ghi: Mục đích của bậc thức giả là “tập trung vào Đạo”.
Điều này cũng ngụ ý chỉ tình trạng Trong bài viết này, tôi (Jay Reeve) sẽ vận dụng
triết lý của Lão Giáo Trung Hoa như một phép ẩn dụ để có thể hiểu được những
khác biệt đã nêu ở trên, đặc biệt là những khác biệt trong các phương pháp giám
sát lâm sàng. Theo triết lý truyền thống Trung Quốc, sự quân bình trong vũ trụ
được thể hiện tiêu biểu trong biểu tượng khá phổ biến của Lão Giáo: Một hình vẽ
về hai lực tương phản Âm (yin) và Dương (yang) với mặt căng tiếp xúc giữa hai lực
có tính cân xứng vừa bất biến vừa linh hoạt. Trong một đoạn của sách Đạo Đức
Kinh (Tao Te Ching), có ghi: Mục đích của bậc thức giả là “tập trung vào Đạo”.
Điều này cũng ngụ ý chỉ tình trạng vô vi (wu wei) – có nghĩa là “không làm gì cả”
(doing nothing), mặc dù thường được hiểu là một trạng thái quân bình mà từ đó
cho phép vận hành các nguyên lý của Đạo. Trong giám sát tâm lý trị liệu, cũng
có một “mặt căng tiếp xúc” giữa hai yếu tố: “cấu trúc” (structure) và “tiến
trình” (process). Và vai trò của “thức giả” ở đây chính là của chuyên viên giám
sát.
SỰ
LINH HOẠT TRONG GIÁM SÁT TÂM LÝ TRỊ LIỆU
Giám sát là một sự tương tác rất phức tạp và
đa dạng, và điều này có thể gây ngạc nhiên cho những người học. Theo kinh nghiệm
của tôi, các sinh viên thường nghĩ rằng trong giám sát họ sẽ được hoàn toàn “dẫn
dắt” bởi những thiên khiếu hoặc cá tính của chuyên viên giám sát. Họ thường
bình luận rằng “Ông (bà) ấy là một chuyên viên giám sát tốt (hoặc tích cực, dở,
xa cách, khắc nghiệt...) như thể một chuyên viên giám sát chỉ có khả năng thể
hiện một hình thức giám sát.
Bất cứ ai đã từng nhiều năm làm giám sát đều
biết rằng có rất nhiều trường phái tư tưởng liên quan đến những hình thức giám
sát tốt nhất hiện nay. Những trường phái tư tưởng này thường có liên quan đến
những định hướng lý thuyết của chuyên viên giám sát. Những khác biệt giữa các
triết lý khác nhau cũng như những khác biệt bên trong từng loại triết lý đều có
thể tạo nên một “sức căng động” (dynamic tension) trong công việc giám sát. Sức
căng này thường được thể hiện qua mức độ thoải mái của học viên (supervisee) và
chuyên viên giám sát (supervisor) đối với các kỹ thuật giám sát khác nhau trong
một hoạt phổ (spectrum) đi từ mức độ “được chỉ bảo và hướng dẫn chặt chẽ”
(highly didactic and directional) cho đến mức độ “đi sâu khám phá và quan hệ”
(highly exploratory and relational). Hai cực của hoạt phổ này chính là hai hình
thức “giám sát âm” và “giám sát dương” (yin and yang supervision).
GIÁM
SÁT DƯƠNG – GIÁM SÁT DỰA TRÊN KỸ THUẬT (TECHNIQUE-BASED SUPERVISION)
Ở một cực bên này của hoạt phổ là cực có tính
chất “tuyệt đối thiên về cấu trúc” (absolute structure). Chúng ta gọi đây là cực
“Dương” trong kỹ thuật giám sát. Theo phương thức “giám sát Dương”, chuyên viên
giám sát và các học viên tiến hành việc giám sát như là một công việc có tính
hướng dẫn về mặt kỹ thuật, qua đó chuyên viên giám sát hướng dẫn cho các học
viên những kỹ thuật của tâm lý trị liệu. Giám sát theo phương thức này thường
có tính nổi trội là “hướng dẫn, chỉ bảo”, bao gồm việc hướng dẫn cách sử dụng
những liệu pháp, các kỹ thuật chuyên biệt, những quan điểm lý thuyết, chỉ định
các bài đọc thêm, và bàn đến những gì nên nói, hoặc không nên nói trong lúc trị
liệu. Mục đích là hướng dẫn người học viên những cách thức chuyên biệt để thực
hành tâm lý trị liệu, còn đối với học viên là để cho họ chứng tỏ được sự thành
thạo ngày càng tăng của mình theo đánh giá của chuyên viên giám sát.
Theo phương thức giám sát Dương, sự thành
công của học viên được đánh giá dựa trên mức độ mà họ tuân thủ theo các hướng dẫn
của chuyên viên giám sát. Trong tình huống xấu nhất, thể thức này có thể dẫn đến
một kiểu giám sát quá nghiêm trang và khô cứng, khiến cho học viên cảm thấy như
thể những ý kiến riêng của họ, nhân cách của họ và kỹ thuật của họ chẳng có
chút giá trị gì; tuy nhiên đôi khi nó cũng mang đến sự tiện ích cho học viên.
Tôi nhớ lại có những lúc mình chẳng muốn gì ngoài việc chờ nghe chuyên viên
giám sát của tôi nói “chính xác” những điều mà tôi phải làm. Nói chung, cũng có
những lúc tôi cảm thấy không an tâm, thấy mình bị mất vị thế nhà trị liệu, hoặc
cảm thấy nguy hiểm khi rơi vào một tình huống nhập nhằng, nhạy cảm khi đứng trước
một thân chủ. Những học viên thường khao khát có được sự hướng dẫn khi họ bị
lâm vào những tình huống gây khủng hoảng hoặc khi họ bị lẫn lộn cái ranh giới
giữa mình với thân chủ. Bất cứ khi nào một học viên cảm thấy lo sợ khi vướng
vào một tình thế trị liệu có tính mơ hồ thì khi ấy việc đưa ra một hướng dẫn cụ
thể, rõ ràng có lẽ sẽ là một “bến bờ an toàn để tránh trú bão”.
Dĩ nhiên, học viên đôi lúc cũng “cần” phải cảm
thấy mình bị lấn ép bởi những tình huống mơ hồ như vậy để phát triển nên tính dẻo
dai và sức chịu đựng mà họ cần có để có thể thực hành công việc trị liệu. Tuy
nhiên, một tình trạng quẫn bách kéo dài cũng khó có thể dẫn đến sự tăng trưởng.
Đối với những nhà trị liệu mới vào nghề, nhà trị liệu hay lo lắng và những nhà
trị liệu đang trong khủng hoảng... liều thuốc tốt nhất chính là phương thức
giám sát Dương.
GIÁM
SÁT ÂM – GIÁM SÁT DỰA TRÊN TIẾN TRÌNH (PROCESS-BASED SUPERVISION)
Ở cực bên kia của hoạt phổ về các phương thức
giám sát chính là cái mà chúng tôi gọi là Giám sát Âm (yin supervision). Trong
phương thức giám sát Âm, chuyên viên giám sát đưa người học viên vào việc xem
xét cái tiến trình thực hiện tâm lý trị liệu. Việc giám sát theo loại này có
tính không hướng dẫn (non-directive): học viên được khuyến khích thể hiện những
cảm xúc cũng như những liên tưởng của mình về các chất liệu lâm sàng có được từ
thân chủ. Việc này cũng có thể bao gồm cả những chú giải về cái tiến trình đang
song song diễn ra trong mối quan hệ giám sát, cũng như việc khám phá tâm trạng
và các phản ứng cảm xúc của người học viên cả trong tình huống trị liệu lẫn
trong buổi giám sát. Mục đích của giám sát theo phương thức này là khám phá,
càng sâu càng tốt, những trải nghiệm có được từ việc thực hành tâm lý trị liệu,
phát biểu ra thành lời những xung đột hoặc những nỗi lo nằm trong vô thức đã
làm ngăn trở sự phát triển của người học viên.
Trong phương thức này, sự thành công của học
viên được đánh giá dựa trên mức độ mà họ thể hiện phong cách trị liệu của chính
mình. Ở tình huống xấu nhất, việc giám sát dựa trên tiến trình có thể dẫn đến một
tình thế mơ hồ tương tự như khi đứng trước một giao lộ giữa một liệu pháp tâm
lý tồi và một tình huống thông thường ngoài xã hội. Các học viên thường than
phiền về điều mơ hồ này, họ thường bảo rằng chuyên viên giám sát của họ hay “trả
lời một câu hỏi bằng một câu hỏi”. Mặc dù điều này nghe có vẻ như cách nói cường
điệu hoặc nói đùa, nhưng đó vẫn là một nhận định rất thường thấy về giám sát
Âm.
Trái ngược với tính chất cứng nhắc của giám
sát Dương, giám sát Âm có nguy cơ dẫn đến một cảm giác ở người học viên là phần
nào đó họ đã không học được gì. Tuy nhiên, nếu được làm tốt, phương thức chú
tâm dựa trên tiến trình có thể dẫn đến việc làm cho các trải nghiệm trong giám
sát trở nên phong phú và có tính tưởng thưởng: đó là lúc những học viên bắt đầu
trải nghiệm được bản chất tỏa lan của các tiến trình mà từ đó nó gây âm vang
vào trong những lúc họ thực hành trị liệu, tham gia giám sát hoặc ngay cả trong
các tương tác khác. Một trong những kỷ niệm đáng giá nhất của tôi trong quá
trình được giám sát nội trú về tâm lý học đó là lúc mà chuyên viên giám sát của
tôi về trị liệu trẻ em đã dạy cho tôi cách thức cứ trở lại và trở lại nhiều lần
với những tiến trình chơi với các thân chủ nhỏ tuổi của tôi, và việc này dẫn
tôi đến việc nhận ra những thành công trong cách can thiệp trị liệu của tôi.
Trong giám sát Âm, tiến trình tự nó làm cho nó có thể được nhận biết (the
process makes itself known).
QUÂN
BÌNH GIỮA GIÁM SÁT ÂM VÀ DƯƠNG
Những chuyên viên giám sát có khuynh hướng
tìm ra phong cách giám sát của riêng mình dựa trên những gì họ được đào tạo
cũng như dựa trên nhân cách của chính họ. Những chuyên viên có xu hướng thiên về
hành vi và giải quyết vấn đề thường có xu hướng giám sát thiên về cấu trúc nhiều
hơn; trong khi đó các chuyên viên có xu hướng tâm động học hoặc hiện sinh thường
thiên về xu hướng giám sát dựa trên tiến trình. Tuy nhiên, việc này cũng có
hàng nghìn điều ngoại lệ: Robert Langs được biết như một nhà trị liệu hành vi
và những nhà thực hành trường phái Zen CBT như Jeremy Safran cũng đã nhẹ nhàng
hòa nhập vào xu hướng dựa trên tiến trình. Sự quân bình giữa hai phong cách “cấu
trúc” và “tiến trình” có nhiều mức độ rất khác nhau giữa các trường phái trị liệu
cũng như ngay trong từng trường phái trị liệu. Một vấn đề khác cũng cần nói đến
đó là hiệu quả của sự tương tác giữa chuyên viên giám sát và các học viên có ảnh
hưởng lên trên sự quân bình này. Tôi cũng từng có lúc bị mắc mứu vào một tình
thế trong đó các học viên của tôi – do tính cách của họ, do sự huấn luyện và
các giám sát trước đó của họ - đã khăng khăng chấp giữ lấy một phương thức giám
sát, hoặc là Âm hoặc là Dương chứ không chấp nhận sự quân bình giữa hai phương
thức.
Khi tôi thực hiện việc giám sát các học viên
có định hướng theo tiến trình (process-oriented) và được đào tạo về tâm động học,
yêu cầu thông thường nhất mà họ hay đặt ra là sự chỉ dẫn cơ bản và chuyên biệt
về những “thủ thuật” (craft) trong tâm lý trị liệu. Họ thường phàn nàn rằng việc
huấn luyện của họ thường dài dòng về lý thuyết nhưng lại thiếu những lời khuyên
có tính thực hành về những gì cần được nói ra với các thân chủ. Học viên hay
nói về những nỗi lo âu và những tiến trình của chính họ liên quan đến công việc
thực hành trị liệu, nhưng lại có ít ý tưởng về cách đương đầu với những phiên
trị liệu đang diễn ra theo thời gian, thực hiện một cuộc khám hỏi tình trạng
tâm thần hoặc thách thức một phụ huynh trong phiên trị liệu gia đình. Trong những
tình huống này, tôi thường có xu hướng áp dụng kiểu giám sát theo “cấu trúc” rất
cụ thể và chi tiết.
Trái lại, những học viên được đào tạo theo những
chương trình dựa trên thực nghiệm (experimentally-based programs) ví dụ như CBT
hoặc các liệu pháp sử dụng kỹ thuật khác, dường như rất tự tin khi vận dụng các
kỹ thuật nhưng lại khó có khả năng nói ra thành lời những cảm nhận của họ về
cách thức mà việc trị liệu đang tiến triển như thế nào. Những học viên này thường
bị “tê liệt” do những nỗi lo xuất hiện khi họ đối mặt với những tình huống
không áp dụng được những kỹ thuật hoặc khi họ không hiểu được những cảm xúc của
chính mình về những thân chủ mà họ trị liệu. Với những học viên này, tôi thường
dùng phương pháp khám phá trong khi thực hiện việc giám sát. Học viên được khuyến
khích nói và khám phá những trải nghiệm của chính họ khi họ thực hành tâm lý trị
liệu, và việc này rất khớp với phong cách giám sát Âm.
LẮNG
NGHE NHỮNG “KHOẢNG TRỐNG” TRONG KỸ NĂNG CỦA NGƯỜI HỌC VIÊN
Trong giám sát, cũng như trong tâm lý trị liệu,
thách thức được đặt ra là phải cho phép người học bước ra khỏi tính chất cố chấp
kiên định vào xu hướng “cấu trúc” hoặc “tiến trình” dể hướng đến một sự chuyển
tiếp nhẹ nhàng theo các mức độ khác nhau bên trong hoạt phổ các phương thức
giám sát, tùy theo điều gì là cần thiết nhất ở từng thời điểm. Để các học viên
học được cách thức chuyển tiếp nhẹ nhàng này, chính những chuyên viên giám sát
cũng cần phải thực hiện một cuộc hành trình tương tự hướng đến khả năng linh hoạt
hơn của chính mình. Dĩ nhiên chúng ta không thể cùng lúc làm tốt tất cả mọi
phong cách và mọi phương thức, nhưng chỉ cần hơi “thoáng” ra một chút cũng có lợi
cho tất cả mọi người, kể cả chuyên viên giám sát lẫn các học viên. Đối với tôi,
việc này bao gồm sự sẵn lòng thỏa mãn những nhu cầu của người học viên, lắng
nghe một cách đầy đủ những gì mà học viên của tôi đang cần, và sau cùng, điều
có lẽ là then chốt để có thể hiểu và áp dụng Lão giáo vào trong giám sát đó là:
nhu cầu được quân bình.
Trong triết lý Lão Giáo, sự thật không nằm
trong cực này hoặc cực kia, trong Âm hoặc trong Dương. Thay vì thế, công việc của
bậc thức giả là cung cấp cái gì đó bị thiếu để mang lại sự quân bình. Để trở
thành những chuyên viên giám sát giỏi, công việc của chúng tôi là lắng nghe những
“khoảng trống” trong phần kỹ năng của các học viên, tính khô khan của những người
quá chú trọng đến “cấu trúc”, tính mơ hồ của những người “quá nhạy cảm”, và
cung cấp cho học viên những gì họ “thiếu”, không phải vì học viên “cần” những
thứ ấy để họ trở nên giống như chúng tôi mà là để cố gắng giữ lấy sự quân bình
cần thiết cho sự tăng trưởng mà tự nó đã có khả năng tự tiến triển và tự có giá
trị.