“Why does psychotherapy need
postmodernism?”
Tác giả: BOGDAN DE BARBARO, Đại học Y khoa Jagiellonian, Cracow, Ba Lan
Nguồn: Archives of Psychiatry and
Psychotherapy, 2008; 3:43–50
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN và nhóm dịch
thuật Trăng Non
Phần 1
TÓM TẮT
Tác giả trình bày những yếu tố của nhãn quan hậu hiện đại
đang hiện diện trong tâm lý trị liệu đương đại. Ngoài ra, ông cũng chỉ ra sự hữu
dụng của một số kỹ thuật trị liệu phản ảnh khuynh hướng đặc trưng cho nhãn quan
hậu hiện đại. Nhãn quan kiến tạo xã hội (social constructionist) cùng tính hữu
dụng của nó trong liệu pháp gia đình cũng được miêu tả song song khi đề cập đến
những tiện ích cũng như những mối nguy khi áp dụng nhãn quan hậu hiện đại trong
tâm lý trị liệu.
Trong lúc công trình này vẫn còn đang chưa hoàn thành, tôi (tác
giả) đã được tin Tom Andersen, một người bạn và cũng là trưởng một nhóm trị liệu
gia đình người Ba Lan, cũng được nhắc đến trong bài viết này, đã qua đời vào
ngày 15/5/2007, và ông cũng chính là người mà tôi mong muốn dâng tặng công
trình này.
(*) Tom Andersen (1936-2007) – BS tâm thần người
Na Uy, Giáo sư Tâm thần học Xã hội (social psychiatry) tại Viện Y học Cộng đồng,
Đại học Tromsø, Na Uy. Ông được biết đến trên thế giới (hơn cả tại Na Uy) với
cách tiếp cận trị liệu gia đình thong qua “nhóm phản ảnh” (Reflecting Team - RT),
khuyến khích cái nhìn đa nguyên hơn lã “chính xác” ở nhà trị liệu để hiểu về những
gì đang xảy ra trong gia đình thân chủ. Tom Anderson đã tạo cảm hứng cho cả Hiệp
hội Trị liệu Gia đình Na Uy lẫn Hiệp hội Trị liệu Gia đình Quốc tế. Ông cũng là
thành viên của Taos Institute (một Viện nghiên cứu về học thuyết kiến tạo xã hội
[social constructionism] tại Texas, Hoa Kỳ (cùng với Harlene Anderson và Harold
Goolishian) – Chú thích của TN Online.
HẬU HIỆN ĐẠI
Khi nói đến hậu hiện đại, mọi người đều nhất trí về một điều
như sau: Không có một định nghĩa duy nhất nào thỏa đáng cho cái khái niệm đã được
chấp nhận rộng rãi này, và thậm chí thời điểm khởi nguyên của nó cũng vẫn còn
chưa chắc chắn, mặc dù khái niệm “hậu hiện đại” gần như rất tương đồng với tư
duy đương đại vì nó được sử dụng lần đầu tiên mãi từ thế kỷ 19 bởi họa sĩ người
Anh John Watkins Chapman. Tuy nhiên, chỉ đến cuối thập niên 1960, người ta mới
thường xuyên xem đây là thời điểm đánh dấu bước khởi đầu rõ rệt của xu hướng hậu
hiện đại.
Theo thuật ngữ được hiện sử dụng thông dụng nhất mà chúng ta
chấp nhận cho mục đích của bài viết này, hậu hiện đại là một sự phát triển về
văn hóa và triết lý, mà từ đó nó đặt ra các câu hỏi về khả năng và độ xác tín của
một cách thức lý giải bao quát và mạch lạc về thực tại. Một sự lý giải đầy đủ về
thực tại được hiểu như là có tính phân đoạn một cách tự nhiên, trong đó bao gồm
cả những phân đoạn khá hỗn độn và thiếu mạch lạc, và vì thế những người theo chủ
nghĩa hoài nghi đã làm xói mòn công trình của kỷ nguyên Ánh Sáng, và mở ra
khuynh hướng đa nguyên nổi trội trong bầu khí trí tuệ của tư duy hậu hiện đại.
Tính đa nguyên, liên quan đến văn học, đã được biết đến qua luận thuyết của
Barthes cho rằng những tác phẩm văn học mang tính sáng tạo sẽ trở nên nhiều hơn
khi có nhiều độc giả, vì mỗi độc giả có một kiểu đọc khác nhau.
Cách nhìn này có thể gây bất ổn cho những người xem lý lẽ là
cội nguồn của sự trật tự và hài hòa, nhưng lại có thể khơi cảm hứng cho những
ai đã trở nên chán nản với lập luận này; những người mà đối với họ thế kỷ 20 là
thời kỳ suy sụp của quyền năng về luân lý và sự đổ vỡ hy vọng về một cách thức
lý giải bao quát, mạch lạc và hữu lý về thực tại.
THẾ NÀO LÀ “HẬU HIỆN ĐẠI”?
Trung tâm Pompidou, với hình dáng phá vỡ kiểu kiến trúc truyền
thống và sự hiện diện của những cấu trúc ống đầy sắc màu trong các khu phố xa
hoa theo kiểu cổ điển, đó chính là kiến trúc có tính chất hậu hiện đại.
Bộ điều khiển từ xa của ti-vi là kiểu thiết bị hậu hiện đại,
với ý nghĩa nó là công cụ cho phép chúng ta, trong vòng vài giây, chuyển cảnh từ
trận đấu quyền Anh sang đại lễ của Đức Giáo Hoàng, rồi qua tư liệu về những đứa
trẻ chết vì đói ở Châu Phi hay cả những cuộc thảo luận về các vấn đề kinh tế.
Tổng thống Pháp Sarkozy là một chính trị gia hậu hiện đại.
Như Aleksander Smolar nói trong tờ Gazeta Wyborcza số ra ngày 12 và 13 tháng
5/2007 rằng (Sarkozy) “không quan tâm nhiều đến ý thức hệ. Ống ấy đã lựa chọn
ngẫu nhiên bất kỳ điều gì miễn có thể chứng minh rằng chúng hữu ích để ông duy
trì quyền lực.”
Cuộc đời thứ hai, tên một trò chơi điện tử phổ biến, là một trò chơi mang
tính hậu hiện đại – Những người tham gia trò chơi này có thể di chuyển giữa thế
giới thực và thế giới mạng – những không gian ảo và dù cho nó không có tính
chính xác rõ ràng đối với suy nghĩ của những nhà đạo đức và các luật gia thì một
người vẫn phải chịu trách nhiệm nếu như người đó phạm tội trên không gian mạng.
Một số quy tắc chính tả, ví dụ chữ cái đầu tiên của tên
riêng thì viết thường (ví dụ như “iPod”) hay đặt một dấu chấm than ở giữa tên (chẳng
hạn như “Ha!Art” – tên của một nhà xuất bản) cũng có tính hậu hiện đại.
Sau cùng thì, bản thân danh sách này cũng có xu hướng hậu hiện
đại, nghĩa là nó hoàn toàn phóng khoáng, minh họa cho bản chất nhiều tầng lớp của
cái thế giới mà chúng ta đang sống.
Tính đa dạng được phát họa ra ở đây, thậm chí còn có thể gọi
là mớ hỗn độn, dường như có vẻ mơ hồ và đáng ngờ hơn thay vì có thể được xem là
hữu ích cho các nhà tâm lý trị liệu. Tuy nhiên, tôi sẽ cố gắng thể hiện điều đó
với tất cả sự hoài nghi (đối với cả chủ nghĩa hoài nghi hậu hiện đại) rằng hướng
đi này có thể được minh chứng là một thứ nhãn quan có thể mang đến nhiều cảm hứng
cho các nhà trị liệu.
Đến lúc này, cần phải làm rõ về một sự khác biệt giữa hai cách
hiểu về khái niệm hậu hiện đại: Theo cách thứ nhất, khái niệm hậu hiện đại được
hiểu như là một tổng thể các xu hướng trí tuệ đương đại, là “những điều kiện trong
thời đại của chúng ta”, những đặc trưng về tập quán và lĩnh vực văn hoá nói chung;
và một mặt khác, theo cách thứ hai, hậu hiện đại được hiểu như là một xu hướng
trong triết học, tâm lý học và nghệ thuật. Đối với các nhà tâm lý trị liệu, mối
liên quan giữa hai lĩnh vực này là đặc biệt thú vị, không những thế nó còn là mối
liên quan giữa con người “hậu hiện đại”, điều kiện văn hóa của người ấy và xu
hướng phát triển trong tâm lý trị liệu và trị liệu gia đình.
Tôi sẽ bàn về sự hiện diện của những “sợi chỉ xuyên suốt”
mang tính chất hậu hiện đại, hầu hết là trong bối cảnh trị liệu gia đình, nhưng
nó cũng có thể truyền cảm hứng cho các mô hình trị liệu khác. Điều quan trọng
là phải nhận ra rằng các thuật ngữ chuyên môn, khi xem xét trong mối liên quan
với những xu hướng này, vẫn không đồng nhất về ý nghĩa, dù chúng ít nhiều đều gián
tiếp chịu ảnh hưởng bởi xu hướng hậu hiện đại. Một số người dùng thuật ngữ “liệu
pháp dựa trên thuyết kiến tạo xã hội” (social
constructionism based therapy), trong khi một số nguồn trích dẫn mới lại sử
dụng thuật ngữ làm nổi bật lên tính chất tương hỗ (collaborative) giữa thân chủ
hoặc bệnh nhân với nhà trị liệu, chẳng hạn như các tên gọi “liệu pháp tương hỗ”
(collaborative therapy), hoặc mô hình
trị liệu dựa-trên-ngôn-ngữ-tương-hỗ (collaborative
language-based model).
Tuy nhiên, mục đích của nghiên cứu này là nhằm tóm lược lại
những biến thể trong thuật ngữ và thay vào đó sẽ tập trung vào bản chất của xu
hướng hậu hiện đại và sự hiện diện của nó trong việc trị liệu.
XU HƯỚNG HẬU HIỆN ĐẠI MANG LẠI ĐIỀU GÌ?
Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về một số nguyên lý hậu hiện đại
cơ bản và xem chúng có được phản ánh lại bằng cách nào đó trong thực hành trị
liệu hay không:
1, Tính đa nguyên (Pluralism)
Như đã nêu trên, tính đa nguyên (về các chủ thuyết, quan điểm,
học thuyết, văn hóa), là một trong các thành tố đặc trưng chủ yếu của tư duy hậu
hiện đại. Kiến thức không có được những nền tảng hằng định, nó không phải là một
kiểu công trình có thể liên tục được mở rộng, có thể lắp thêm vào những mặt bằng
khám phá mới và những lý thuyết mới có thể khám phá hết những chiều sâu kỳ vĩ của
nó.
Đối với một nhà tâm lý trị liệu được đào tạo
theo kiểu y khoa, bài khảo luận này, ít nhất, cũng có thể mang tính mơ hồ khi
so sánh với những thành công tuyệt vời được ghi nhận trong lĩnh vực sinh – y học,
một lĩnh vực chẳng dựa trên điều gì khác ngoài những sự kiện thực tế chắc chắn.
Tuy nhiên, trong cách tiếp cận làm việc có tính nhân bản (bao gồm cả tâm lý trị
liệu), tính đa nguyên phải là điều nổi bật. (Chú thích của ND)
Cũng giống như khi nhãn quan hiện đại (modernism) đi sâu vào những ngành khoa học liên quan đến sự kiện thực
tế, nhãn quan hậu hiện đại cũng xem kiến thức của con người được dựa trên những
sơ đồ diễn giải có thể thay đổi được, mà từ đó những bối cảnh chính trị, lịch sử
và kinh tế sẽ mang lại sự trật tự, những cảm nhận và ý nghĩa cho những trải
nghiệm của chúng ta. Không có một chân lý duy nhất, mà chỉ có những sự thật
khác nhau mà thôi. Cách đặt vấn đề truy vấn về sự tồn tại của một chân lý khả
tri và các lý thuyết diễn tả nó (được biết như tình trạng sụp đổ của những
“siêu trần thuật” – metanarration) đã
tạo nên một bầu khí hoài nghi và không tin tưởng mang tính lập trình đối với bất
kỳ chủ thuyết nào có liên quan đến các công trình trong kỷ nguyên Ánh Sáng, những
chủ thuyết đã đoan chắc rằng chúng chứa đựng sẵn những tri thức.
(*) Kỷ nguyên Ánh Sáng (Enlightenment): Một
trào lưu tri thức ở Châu Âu vào khoảng thế kỷ 17 và 18, nhấn mạnh vào lý lẽ và
chủ nghĩa cá nhân nhiều hơn là truyền thống. Nó chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi các
triết gia thế kỷ 17 như Descartes, Locke, and Newton, cùng những người xuất
chúng đã triển khai xu hướng này như Kant, Goethe, Voltaire, Rousseau, và Adam
Smith. (Chú thích của ND)
Trong lĩnh vực tâm lý trị liệu, chúng ta có thể trải nghiệm
và nhận ra được tính chất đa nguyên này thông qua sự đa dạng, phong phú của các
trường phái, phương pháp tiếp cận và mô hình trị liệu khác nhau. Một vài trường
phái trong số này, theo tinh thần thực sự của hậu hiện đại, có thể, hoặc xem
như có thể, đã mô tả hoạt động tâm trí của con người theo một cách thức đầy đủ
và bao quát; trong khi một số trường phái khác lại có tính chất khá rời rạc. Những
ngôn ngữ được sử dụng, những phương pháp và mục đích của nhiều trường phái vẫn
rất khác nhau; chúng tạo nên một thứ hỗn hợp từ đó có thể gây lo lắng cho một số
người, nhưng lại hoàn toàn có tính tự nhiên với những người khác. Xu hướng hậu
hiện đại khuyến khích chúng ta hãy từ bỏ cảm nhận về tính ưu việt đối với những
nền “văn hóa trị liệu” khác, để thay bằng những lợi ích có được từ các phương thức
tiếp cận có tính hiếu kỳ, gây ngạc nhiên và thân thiện.
Tính đa nguyên này cũng phù hợp trong lĩnh vực trị liệu gia
đình. Trái ngược với nhãn quan hiện đại (modernist
view), không có lý do gì để chúng ta phải chấp nhận duy nhất một học thuyết
về gia đình hoặc chấp nhận chỉ một trong số các hệ chuẩn mực về gia đình. Những
gì đang xảy ra ngày càng nhiều hơn trong văn hóa của chúng ta, những quan sát về
những hiện tượng khác nhau, sẽ cung cấp cho thêm chúng ta nhiều lý lẽ để tranh
luận. Ý tưởng về một gia đình có hai hoặc ba thế hệ, với ông bà, cha mẹ và con
cái, không còn là một chuẩn mực phổ biến nữa (cả về mặt thống kê lẫn như một điều
lý tưởng). Cũng sẽ không có được những định nghĩa rõ rệt về thế nào là “lành mạnh”
và “bệnh hoạn”, hoặc thế nào là “đúng chức năng” và “loạn chức năng”. Điều có
thể được xem là “tốt” vào lúc này, nơi này, lại có thể trở thành “bệnh” hoặc “tệ”
vào lúc khác, nơi khác. Cách đây không lâu, khi diễn ra những cuộc cách mạng về
tập quán và công nghệ vào khoảng đầu thế kỷ, những quan sát này, dù là khá rõ
ràng, đã được xem như thể là những tình trạng vô tổ chức hoặc phi chuẩn mực một
cách thiếu căn cứ. Những lý thuyết vốn được xem như là nguồn để rút ra những phán
xét hợp lý lúc ấy đã trở nên không đáng tin nữa. Từ quan điểm lý thuyết – nhận
thức, việc này làm cho thực tại càng trở nên mập mờ hơn thay vì là làm rõ nó.
Tom Andersen, khi gợi lại một số kiểu thành kiến và mê tín, đã chỉ ra rằng những
kỹ năng then chốt khi tiếp xúc với các gia đình phải là khả năng “đi vào bên
trong câu chuyện của gia đình”, trong lúc đó phải bỏ qua hoặc đặt những lý thuyết
của nhà trị liệu sang một bên, những lý thuyết hóa ra lại che đậy chứ không
giúp chúng ta hiểu được gia đình ấy. Đáng lưu ý là nửa thế kỷ trước đây, một
bác sĩ tâm thần nổi tiếng của Ba Lan, Antoni Kępiński, đã cảnh báo về những mối
nguy hiểm tiềm tàng khi chúng ta quá bám dính vào các khái niệm trong lý thuyết.
Xin trích dẫn lời của ông: “Sẽ không tốt cho cả nhà tâm thần học lẫn bệnh nhân
khi họ để cho chính mình chịu ảnh hưởng quá mạnh bởi những giả thuyết có tính
chắc chắn hoặc bị ảnh hưởng bởi những điều được rút ra từ kết quả của những
nghiên cứu khoa học quan trọng. Cách này thực sự có thể dẫn đến những diễn giải
sai lầm về tình trạng thực của bệnh nhân”.
Chủ đề này có thể được làm rõ hơn trong các sơ đồ trình bày
bên dưới đây.
Vấn đề này cũng được tóm tắt rõ trong một trích dẫn từ
Gaston Bachelard: “Để có thể suy nghĩ, người ta cần phải quên đi thật nhiều những
gì mà mình đã được học…”
2, Vai trò của ngôn ngữ và thuyết kiến tạo xã hội (social
constructionism).
Điểm then chốt thứ hai của chủ thuyết hậu hiện đại là vai
trò của ngôn ngữ trong sự diễn ngôn xã hội (social
discourse). Theo lẽ thường tình thì ngôn ngữ phản ánh thực tại, nhưng những
người theo chủ thuyết hậu hiện đại lại đưa ra những ý kiến xa hơn đó là: ngôn
ngữ cũng góp phần kiến tạo thực tại thay vì chỉ đơn giản là miêu tả nó. Thực tại
là một “kiến tạo xã hội” (social construct) được tạo nên bởi ngôn ngữ. Sự diễn
ngôn về thế gian không chỉ là một bức bản đồ của thế gian mà còn là hiệu ứng có
được từ sự trao đổi bằng ngôn ngữ trong xã hội. Thực tại được mô tả, hay nói
cách khác là được “định dạng bằng ngôn ngữ” (linguisticated), để sử dụng một thuật ngữ có tính rối rắm về triết
học nhưng theo nhiều cách lại có thể chỉ ra được điểm chính yếu của nó, và
chính những tiêu chí xã hội hoặc chính trị mới có thể làm cho một phương pháp
nào đó trở nên có tính chính đáng, hợp lệ. Những người hiện đang nắm giữ quyền
lực (không nhất thiết theo nghĩa chính trị và trực tiếp) và hành xử bên trong
khuôn khổ ấy – sử dụng thuật ngữ cổ điển của trường phái Foucault – đã dự phần
vào sự diễn ngôn và diễn nghĩa cho thực tại. Ví dụ, những gì mà theo cách diễn
ngôn kiểu thần học thời Trung Cổ gọi là “bị ma quỷ ám” thì ngày nay được gọi tên
là “rối loạn phân ly”, theo cách diễn ngôn của y khoa.
Vai trò của nhà trị liệu đang thay đổi trong một bối cảnh
như thế. Theo các mô hình hiện đại, một nhà trị liệu không chỉ phải biết rõ những
gì đang gây ra vấn đề nơi bệnh nhân (hoặc trong một gia đình), những gì mà bệnh
nhân đang cần để trở nên lành mạnh hơn và làm thế nào để đạt được điều ấy, mà (để
sử dụng ngôn ngữ của lý thuyết trị liệu của mình) nhà trị liệu còn phải đề xuất
nên một thực tại có tính chuyên biệt. Chẳng hạn như một nhà trị liệu gia đình
theo trường phái cấu trúc sẽ suy nghĩ và phát biểu ý nghĩ một cách trực tiếp
trong tiến trình trị liệu sao cho gia đình có thể hồi phục lại chức năng vận
hành của mình nếu nó được cấu trúc lại một cách đúng đắn (nó giúp bảo tồn những
đường biên giới chức năng giữa các thế hệ, bố trí lại những mối quan hệ bộ ba
và giới thiệu cho gia đình những cách thức phân chia quyền hành vv…). Trong khi
đó, theo cách tiếp cận hậu hiện đại, nhà trị liệu không vin vào những hiểu biết
có trước của mình, ông ta không phải là một “chuyên gia”, hoặc nếu là chuyên
gia, ông ta chỉ là một “chuyên gia nói chuyện tốt” mà thôi. Không có một mô
hình gia đình nào, cũng không có một phương thức trị liệu được định rõ nào khác
hơn là những gì nẩy sinh ra trong cuộc đối thoại giữa các bên tham gia vào tiến
trình đầy sang tạo này. Một phần trong chương trình làm việc của nhà trị liệu
là phải biết “không tin vào lý thuyết”, mà điều đó có nghĩa là những giả thuyết
của nhà trị liệu phải được duy trì trong một “trạng thái can thiệp” (state of intervention) (gợi nhớ một phạm
trù của Gianfranco Cecchino – Nhà trị liệu gia đình
trường phái Milan, Ý - ND), nghĩa là những giả thuyết ấy có thể được
dùng đến hoặc bỏ đi cũng được. Việc kiểm định các giả thuyết và tìm kiếm những
câu chuyện kể theo cách mới không thể xảy ra trong một bầu khí tiêu cực thiếu
tính hỗ trợ, mà như là (lại sử dụng đến một từ quan trọng đối với những nhà trị
liệu theo xu hướng hậu hiện đại) một sự “sáng tạo” chung giữa nhà trị liệu và
các thành viên trong gia đình.
Một ví dụ tốt có thể được đơn cử ở đây đó là phương pháp “nhóm
phản ảnh” (reflective team method), thường được dẫn ra như một thể thức kinh điển
của xu hướng hậu hiện đại, được dựa trên sự hợp tác bằng ngôn ngữ (linguistic cooperation). Sự hiện diện một
cách tự nhiên của những phiên bản đa dạng trong cách nhận thức về thế giới, nhất
là trong bối cảnh trị liệu gia đình, là điều đặc biệt đáng lưu ý ở đây. Với rất
nhiều những ý kiến phản ảnh đến từ những “bình luận viên” khác nhau sẽ khiến không
ai “bị che mắt” trước vấn đề và sự mô tả câu chuyện sẽ được mở rộng dần dần
thông qua sự chấp nhận của bệnh nhân (gia đình hoặc bất cứ thành viên tham dự
nào trong phiên trị liệu “theo kiểu Andersen”) về những phát biểu có tính chất
“hết sức khác biệt” so với “bức bản đồ” đã được lập ra cho đến lúc đó.
3, Tính thực dụng (pragmatism)
Phương pháp được trình bày trong phần trên đã minh họa một
khía cạnh cốt lõi khác của nhãn quan hậu hiện đại. Kiến thức (dù là các học
thuyết cao cấp, trừu tượng, hoặc sự hiểu biết ở trình độ thấp hơn của một gia
đình cụ thể nào đó) cũng chỉ như phiên bản của một bản tường trình, của một
khái niệm được khái quát hóa về những loại phương thức nào có thể được áp dụng
thành công. Chúng ta không đòi hỏi phải nhận biết được chân lý, mà chỉ cần biết
được một bản tường trình về nó – cái mà từ đó sẽ hướng dẫn chúng ta đến một
phương thức có thể chứng minh là thành công. Không cần nói ta cũng thấy rằng
phương thức ấy không nhất thiết cần được mô tả là “đúng”, mà chỉ đơn giản là
“phù hợp” và mang lại những kết quả đáng kể cho việc trị liệu tâm lý.
Các hiện tượng cần được quan sát trong bối cảnh của chúng.
Không có bối cảnh, chúng sẽ trở nên phiến diện, chẳng hạn như (ở đây ta sử dụng
một ví dụ được ưa thích bởi những nhà trị liệu theo trường phái chiến lược) người
ta không thể hiểu được sự chuyển động của những chiếc mang của một con cá đã
giúp rửa sạch bờ biển như thế nào, nếu như xem xét chúng bên ngoài môi trường tự
nhiên của chúng. Cách tư duy theo bối cảnh trong liệu pháp gia đình là cách
nghĩ không thể tránh khỏi vì ta bắt buộc phải xem xét đến bản chất của việc (một
cá nhân) là một phần của gia đình. Một con người là một phần của hệ thống gia
đình và việc trị liệu hệ thống gia đình dựa trên thực tế đơn giản ấy. Kết quả
là, cách trả lời cho câu hỏi “bệnh lý là gì?” đang thay đổi. Trái ngược với
cách hiểu theo truyền thống về bệnh lý, nó “không được nhận thấy trong một người
bệnh” mà, có thể nói, là được thấy trong những mô hình tương tác của gia đình.
Bệnh nhân chỉ định (I.P.) chỉ là một người “mang bệnh lý”. Những triệu chứng có
thể chứa đựng những đặc trưng mang tính ẩn dụ cho sự giao tiếp bên trong gia
đình. Sự phân tích các mối quan hệ xoay vòng và các phản hồi sẽ dẫn đến sự chuyển
đổi từ dạng ngôn ngữ đánh giá và phê phán sang thể loại ngôn ngữ có tính mô tả,
hoặc với rất nhiều kiểu cách mô tả, về những câu chuyện được trần thuật có liên
quan qua lại với nhau. Các cá nhân sẽ cùng cộng tác trong một mạng lưới có tính
bối cảnh (contextual network).
Đón xem tiếp Phần 2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét