Thứ Bảy, 4 tháng 9, 2021

VÌ SAO TÂM LÝ TRỊ LIỆU CẦN ĐẾN NHÃN QUAN HẬU HIỆN ĐẠI? - Phần 1

“Why does psychotherapy need postmodernism?”

Tác giả: BOGDAN DE BARBARO, Đại học Y khoa Jagiellonian, Cracow, Ba Lan

Nguồn: Archives of Psychiatry and Psychotherapy, 2008; 3:43–50

Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾNnhóm dịch thuật Trăng Non 



Phần 1

TÓM TẮT

Tác giả trình bày những yếu tố của nhãn quan hậu hiện đại đang hiện diện trong tâm lý trị liệu đương đại. Ngoài ra, ông cũng chỉ ra sự hữu dụng của một số kỹ thuật trị liệu phản ảnh khuynh hướng đặc trưng cho nhãn quan hậu hiện đại. Nhãn quan kiến tạo xã hội (social constructionist) cùng tính hữu dụng của nó trong liệu pháp gia đình cũng được miêu tả song song khi đề cập đến những tiện ích cũng như những mối nguy khi áp dụng nhãn quan hậu hiện đại trong tâm lý trị liệu.

Trong lúc công trình này vẫn còn đang chưa hoàn thành, tôi (tác giả) đã được tin Tom Andersen, một người bạn và cũng là trưởng một nhóm trị liệu gia đình người Ba Lan, cũng được nhắc đến trong bài viết này, đã qua đời vào ngày 15/5/2007, và ông cũng chính là người mà tôi mong muốn dâng tặng công trình này.

(*) Tom Andersen (1936-2007) – BS tâm thần người Na Uy, Giáo sư Tâm thần học Xã hội (social psychiatry) tại Viện Y học Cộng đồng, Đại học Tromsø, Na Uy. Ông được biết đến trên thế giới (hơn cả tại Na Uy) với cách tiếp cận trị liệu gia đình thong qua “nhóm phản ảnh” (Reflecting Team - RT), khuyến khích cái nhìn đa nguyên hơn lã “chính xác” ở nhà trị liệu để hiểu về những gì đang xảy ra trong gia đình thân chủ. Tom Anderson đã tạo cảm hứng cho cả Hiệp hội Trị liệu Gia đình Na Uy lẫn Hiệp hội Trị liệu Gia đình Quốc tế. Ông cũng là thành viên của Taos Institute (một Viện nghiên cứu về học thuyết kiến tạo xã hội [social constructionism] tại Texas, Hoa Kỳ (cùng với Harlene Anderson và Harold Goolishian) – Chú thích của TN Online.

HẬU HIỆN ĐẠI

Khi nói đến hậu hiện đại, mọi người đều nhất trí về một điều như sau: Không có một định nghĩa duy nhất nào thỏa đáng cho cái khái niệm đã được chấp nhận rộng rãi này, và thậm chí thời điểm khởi nguyên của nó cũng vẫn còn chưa chắc chắn, mặc dù khái niệm “hậu hiện đại” gần như rất tương đồng với tư duy đương đại vì nó được sử dụng lần đầu tiên mãi từ thế kỷ 19 bởi họa sĩ người Anh John Watkins Chapman. Tuy nhiên, chỉ đến cuối thập niên 1960, người ta mới thường xuyên xem đây là thời điểm đánh dấu bước khởi đầu rõ rệt của xu hướng hậu hiện đại.

Theo thuật ngữ được hiện sử dụng thông dụng nhất mà chúng ta chấp nhận cho mục đích của bài viết này, hậu hiện đại là một sự phát triển về văn hóa và triết lý, mà từ đó nó đặt ra các câu hỏi về khả năng và độ xác tín của một cách thức lý giải bao quát và mạch lạc về thực tại. Một sự lý giải đầy đủ về thực tại được hiểu như là có tính phân đoạn một cách tự nhiên, trong đó bao gồm cả những phân đoạn khá hỗn độn và thiếu mạch lạc, và vì thế những người theo chủ nghĩa hoài nghi đã làm xói mòn công trình của kỷ nguyên Ánh Sáng, và mở ra khuynh hướng đa nguyên nổi trội trong bầu khí trí tuệ của tư duy hậu hiện đại. Tính đa nguyên, liên quan đến văn học, đã được biết đến qua luận thuyết của Barthes cho rằng những tác phẩm văn học mang tính sáng tạo sẽ trở nên nhiều hơn khi có nhiều độc giả, vì mỗi độc giả có một kiểu đọc khác nhau.

Cách nhìn này có thể gây bất ổn cho những người xem lý lẽ là cội nguồn của sự trật tự và hài hòa, nhưng lại có thể khơi cảm hứng cho những ai đã trở nên chán nản với lập luận này; những người mà đối với họ thế kỷ 20 là thời kỳ suy sụp của quyền năng về luân lý và sự đổ vỡ hy vọng về một cách thức lý giải bao quát, mạch lạc và hữu lý về thực tại.

THẾ NÀO LÀ “HẬU HIỆN ĐẠI”?

Trung tâm Pompidou, với hình dáng phá vỡ kiểu kiến trúc truyền thống và sự hiện diện của những cấu trúc ống đầy sắc màu trong các khu phố xa hoa theo kiểu cổ điển, đó chính là kiến trúc có tính chất hậu hiện đại.

Bộ điều khiển từ xa của ti-vi là kiểu thiết bị hậu hiện đại, với ý nghĩa nó là công cụ cho phép chúng ta, trong vòng vài giây, chuyển cảnh từ trận đấu quyền Anh sang đại lễ của Đức Giáo Hoàng, rồi qua tư liệu về những đứa trẻ chết vì đói ở Châu Phi hay cả những cuộc thảo luận về các vấn đề kinh tế.

Tổng thống Pháp Sarkozy là một chính trị gia hậu hiện đại. Như Aleksander Smolar nói trong tờ Gazeta Wyborcza số ra ngày 12 và 13 tháng 5/2007 rằng (Sarkozy) “không quan tâm nhiều đến ý thức hệ. Ống ấy đã lựa chọn ngẫu nhiên bất kỳ điều gì miễn có thể chứng minh rằng chúng hữu ích để ông duy trì quyền lực.”

Cuộc đời thứ hai, tên một trò chơi điện tử phổ biến, là một trò chơi mang tính hậu hiện đại – Những người tham gia trò chơi này có thể di chuyển giữa thế giới thực và thế giới mạng – những không gian ảo và dù cho nó không có tính chính xác rõ ràng đối với suy nghĩ của những nhà đạo đức và các luật gia thì một người vẫn phải chịu trách nhiệm nếu như người đó phạm tội trên không gian mạng.

Một số quy tắc chính tả, ví dụ chữ cái đầu tiên của tên riêng thì viết thường (ví dụ như “iPod”) hay đặt một dấu chấm than ở giữa tên (chẳng hạn như “Ha!Art” – tên của một nhà xuất bản) cũng có tính hậu hiện đại.

Sau cùng thì, bản thân danh sách này cũng có xu hướng hậu hiện đại, nghĩa là nó hoàn toàn phóng khoáng, minh họa cho bản chất nhiều tầng lớp của cái thế giới mà chúng ta đang sống.

Tính đa dạng được phát họa ra ở đây, thậm chí còn có thể gọi là mớ hỗn độn, dường như có vẻ mơ hồ và đáng ngờ hơn thay vì có thể được xem là hữu ích cho các nhà tâm lý trị liệu. Tuy nhiên, tôi sẽ cố gắng thể hiện điều đó với tất cả sự hoài nghi (đối với cả chủ nghĩa hoài nghi hậu hiện đại) rằng hướng đi này có thể được minh chứng là một thứ nhãn quan có thể mang đến nhiều cảm hứng cho các nhà trị liệu.

Đến lúc này, cần phải làm rõ về một sự khác biệt giữa hai cách hiểu về khái niệm hậu hiện đại: Theo cách thứ nhất, khái niệm hậu hiện đại được hiểu như là một tổng thể các xu hướng trí tuệ đương đại, là “những điều kiện trong thời đại của chúng ta”, những đặc trưng về tập quán và lĩnh vực văn hoá nói chung; và một mặt khác, theo cách thứ hai, hậu hiện đại được hiểu như là một xu hướng trong triết học, tâm lý học và nghệ thuật. Đối với các nhà tâm lý trị liệu, mối liên quan giữa hai lĩnh vực này là đặc biệt thú vị, không những thế nó còn là mối liên quan giữa con người “hậu hiện đại”, điều kiện văn hóa của người ấy và xu hướng phát triển trong tâm lý trị liệu và trị liệu gia đình.

Tôi sẽ bàn về sự hiện diện của những “sợi chỉ xuyên suốt” mang tính chất hậu hiện đại, hầu hết là trong bối cảnh trị liệu gia đình, nhưng nó cũng có thể truyền cảm hứng cho các mô hình trị liệu khác. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng các thuật ngữ chuyên môn, khi xem xét trong mối liên quan với những xu hướng này, vẫn không đồng nhất về ý nghĩa, dù chúng ít nhiều đều gián tiếp chịu ảnh hưởng bởi xu hướng hậu hiện đại. Một số người dùng thuật ngữ “liệu pháp dựa trên thuyết kiến tạo xã hội” (social constructionism based therapy), trong khi một số nguồn trích dẫn mới lại sử dụng thuật ngữ làm nổi bật lên tính chất tương hỗ (collaborative) giữa thân chủ hoặc bệnh nhân với nhà trị liệu, chẳng hạn như các tên gọi “liệu pháp tương hỗ” (collaborative therapy), hoặc mô hình trị liệu dựa-trên-ngôn-ngữ-tương-hỗ (collaborative language-based model).

Tuy nhiên, mục đích của nghiên cứu này là nhằm tóm lược lại những biến thể trong thuật ngữ và thay vào đó sẽ tập trung vào bản chất của xu hướng hậu hiện đại và sự hiện diện của nó trong việc trị liệu.

XU HƯỚNG HẬU HIỆN ĐẠI MANG LẠI ĐIỀU GÌ?

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về một số nguyên lý hậu hiện đại cơ bản và xem chúng có được phản ánh lại bằng cách nào đó trong thực hành trị liệu hay không:

1, Tính đa nguyên (Pluralism)

Như đã nêu trên, tính đa nguyên (về các chủ thuyết, quan điểm, học thuyết, văn hóa), là một trong các thành tố đặc trưng chủ yếu của tư duy hậu hiện đại. Kiến thức không có được những nền tảng hằng định, nó không phải là một kiểu công trình có thể liên tục được mở rộng, có thể lắp thêm vào những mặt bằng khám phá mới và những lý thuyết mới có thể khám phá hết những chiều sâu kỳ vĩ của nó.

Đối với một nhà tâm lý trị liệu được đào tạo theo kiểu y khoa, bài khảo luận này, ít nhất, cũng có thể mang tính mơ hồ khi so sánh với những thành công tuyệt vời được ghi nhận trong lĩnh vực sinh – y học, một lĩnh vực chẳng dựa trên điều gì khác ngoài những sự kiện thực tế chắc chắn. Tuy nhiên, trong cách tiếp cận làm việc có tính nhân bản (bao gồm cả tâm lý trị liệu), tính đa nguyên phải là điều nổi bật. (Chú thích của ND)

Cũng giống như khi nhãn quan hiện đại (modernism) đi sâu vào những ngành khoa học liên quan đến sự kiện thực tế, nhãn quan hậu hiện đại cũng xem kiến thức của con người được dựa trên những sơ đồ diễn giải có thể thay đổi được, mà từ đó những bối cảnh chính trị, lịch sử và kinh tế sẽ mang lại sự trật tự, những cảm nhận và ý nghĩa cho những trải nghiệm của chúng ta. Không có một chân lý duy nhất, mà chỉ có những sự thật khác nhau mà thôi. Cách đặt vấn đề truy vấn về sự tồn tại của một chân lý khả tri và các lý thuyết diễn tả nó (được biết như tình trạng sụp đổ của những “siêu trần thuật” – metanarration) đã tạo nên một bầu khí hoài nghi và không tin tưởng mang tính lập trình đối với bất kỳ chủ thuyết nào có liên quan đến các công trình trong kỷ nguyên Ánh Sáng, những chủ thuyết đã đoan chắc rằng chúng chứa đựng sẵn những tri thức.

(*) Kỷ nguyên Ánh Sáng (Enlightenment): Một trào lưu tri thức ở Châu Âu vào khoảng thế kỷ 17 và 18, nhấn mạnh vào lý lẽ và chủ nghĩa cá nhân nhiều hơn là truyền thống. Nó chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi các triết gia thế kỷ 17 như Descartes, Locke, and Newton, cùng những người xuất chúng đã triển khai xu hướng này như Kant, Goethe, Voltaire, Rousseau, và Adam Smith. (Chú thích của ND)

Trong lĩnh vực tâm lý trị liệu, chúng ta có thể trải nghiệm và nhận ra được tính chất đa nguyên này thông qua sự đa dạng, phong phú của các trường phái, phương pháp tiếp cận và mô hình trị liệu khác nhau. Một vài trường phái trong số này, theo tinh thần thực sự của hậu hiện đại, có thể, hoặc xem như có thể, đã mô tả hoạt động tâm trí của con người theo một cách thức đầy đủ và bao quát; trong khi một số trường phái khác lại có tính chất khá rời rạc. Những ngôn ngữ được sử dụng, những phương pháp và mục đích của nhiều trường phái vẫn rất khác nhau; chúng tạo nên một thứ hỗn hợp từ đó có thể gây lo lắng cho một số người, nhưng lại hoàn toàn có tính tự nhiên với những người khác. Xu hướng hậu hiện đại khuyến khích chúng ta hãy từ bỏ cảm nhận về tính ưu việt đối với những nền “văn hóa trị liệu” khác, để thay bằng những lợi ích có được từ các phương thức tiếp cận có tính hiếu kỳ, gây ngạc nhiên và thân thiện.

Tính đa nguyên này cũng phù hợp trong lĩnh vực trị liệu gia đình. Trái ngược với nhãn quan hiện đại (modernist view), không có lý do gì để chúng ta phải chấp nhận duy nhất một học thuyết về gia đình hoặc chấp nhận chỉ một trong số các hệ chuẩn mực về gia đình. Những gì đang xảy ra ngày càng nhiều hơn trong văn hóa của chúng ta, những quan sát về những hiện tượng khác nhau, sẽ cung cấp cho thêm chúng ta nhiều lý lẽ để tranh luận. Ý tưởng về một gia đình có hai hoặc ba thế hệ, với ông bà, cha mẹ và con cái, không còn là một chuẩn mực phổ biến nữa (cả về mặt thống kê lẫn như một điều lý tưởng). Cũng sẽ không có được những định nghĩa rõ rệt về thế nào là “lành mạnh” và “bệnh hoạn”, hoặc thế nào là “đúng chức năng” và “loạn chức năng”. Điều có thể được xem là “tốt” vào lúc này, nơi này, lại có thể trở thành “bệnh” hoặc “tệ” vào lúc khác, nơi khác. Cách đây không lâu, khi diễn ra những cuộc cách mạng về tập quán và công nghệ vào khoảng đầu thế kỷ, những quan sát này, dù là khá rõ ràng, đã được xem như thể là những tình trạng vô tổ chức hoặc phi chuẩn mực một cách thiếu căn cứ. Những lý thuyết vốn được xem như là nguồn để rút ra những phán xét hợp lý lúc ấy đã trở nên không đáng tin nữa. Từ quan điểm lý thuyết – nhận thức, việc này làm cho thực tại càng trở nên mập mờ hơn thay vì là làm rõ nó. Tom Andersen, khi gợi lại một số kiểu thành kiến và mê tín, đã chỉ ra rằng những kỹ năng then chốt khi tiếp xúc với các gia đình phải là khả năng “đi vào bên trong câu chuyện của gia đình”, trong lúc đó phải bỏ qua hoặc đặt những lý thuyết của nhà trị liệu sang một bên, những lý thuyết hóa ra lại che đậy chứ không giúp chúng ta hiểu được gia đình ấy. Đáng lưu ý là nửa thế kỷ trước đây, một bác sĩ tâm thần nổi tiếng của Ba Lan, Antoni Kępiński, đã cảnh báo về những mối nguy hiểm tiềm tàng khi chúng ta quá bám dính vào các khái niệm trong lý thuyết. Xin trích dẫn lời của ông: “Sẽ không tốt cho cả nhà tâm thần học lẫn bệnh nhân khi họ để cho chính mình chịu ảnh hưởng quá mạnh bởi những giả thuyết có tính chắc chắn hoặc bị ảnh hưởng bởi những điều được rút ra từ kết quả của những nghiên cứu khoa học quan trọng. Cách này thực sự có thể dẫn đến những diễn giải sai lầm về tình trạng thực của bệnh nhân”.

Chủ đề này có thể được làm rõ hơn trong các sơ đồ trình bày bên dưới đây.

Vấn đề này cũng được tóm tắt rõ trong một trích dẫn từ Gaston Bachelard: “Để có thể suy nghĩ, người ta cần phải quên đi thật nhiều những gì mà mình đã được học…”

2, Vai trò của ngôn ngữ và thuyết kiến tạo xã hội (social constructionism).

Điểm then chốt thứ hai của chủ thuyết hậu hiện đại là vai trò của ngôn ngữ trong sự diễn ngôn xã hội (social discourse). Theo lẽ thường tình thì ngôn ngữ phản ánh thực tại, nhưng những người theo chủ thuyết hậu hiện đại lại đưa ra những ý kiến xa hơn đó là: ngôn ngữ cũng góp phần kiến tạo thực tại thay vì chỉ đơn giản là miêu tả nó. Thực tại là một “kiến tạo xã hội” (social construct) được tạo nên bởi ngôn ngữ. Sự diễn ngôn về thế gian không chỉ là một bức bản đồ của thế gian mà còn là hiệu ứng có được từ sự trao đổi bằng ngôn ngữ trong xã hội. Thực tại được mô tả, hay nói cách khác là được “định dạng bằng ngôn ngữ” (linguisticated), để sử dụng một thuật ngữ có tính rối rắm về triết học nhưng theo nhiều cách lại có thể chỉ ra được điểm chính yếu của nó, và chính những tiêu chí xã hội hoặc chính trị mới có thể làm cho một phương pháp nào đó trở nên có tính chính đáng, hợp lệ. Những người hiện đang nắm giữ quyền lực (không nhất thiết theo nghĩa chính trị và trực tiếp) và hành xử bên trong khuôn khổ ấy – sử dụng thuật ngữ cổ điển của trường phái Foucault – đã dự phần vào sự diễn ngôn và diễn nghĩa cho thực tại. Ví dụ, những gì mà theo cách diễn ngôn kiểu thần học thời Trung Cổ gọi là “bị ma quỷ ám” thì ngày nay được gọi tên là “rối loạn phân ly”, theo cách diễn ngôn của y khoa.

Vai trò của nhà trị liệu đang thay đổi trong một bối cảnh như thế. Theo các mô hình hiện đại, một nhà trị liệu không chỉ phải biết rõ những gì đang gây ra vấn đề nơi bệnh nhân (hoặc trong một gia đình), những gì mà bệnh nhân đang cần để trở nên lành mạnh hơn và làm thế nào để đạt được điều ấy, mà (để sử dụng ngôn ngữ của lý thuyết trị liệu của mình) nhà trị liệu còn phải đề xuất nên một thực tại có tính chuyên biệt. Chẳng hạn như một nhà trị liệu gia đình theo trường phái cấu trúc sẽ suy nghĩ và phát biểu ý nghĩ một cách trực tiếp trong tiến trình trị liệu sao cho gia đình có thể hồi phục lại chức năng vận hành của mình nếu nó được cấu trúc lại một cách đúng đắn (nó giúp bảo tồn những đường biên giới chức năng giữa các thế hệ, bố trí lại những mối quan hệ bộ ba và giới thiệu cho gia đình những cách thức phân chia quyền hành vv…). Trong khi đó, theo cách tiếp cận hậu hiện đại, nhà trị liệu không vin vào những hiểu biết có trước của mình, ông ta không phải là một “chuyên gia”, hoặc nếu là chuyên gia, ông ta chỉ là một “chuyên gia nói chuyện tốt” mà thôi. Không có một mô hình gia đình nào, cũng không có một phương thức trị liệu được định rõ nào khác hơn là những gì nẩy sinh ra trong cuộc đối thoại giữa các bên tham gia vào tiến trình đầy sang tạo này. Một phần trong chương trình làm việc của nhà trị liệu là phải biết “không tin vào lý thuyết”, mà điều đó có nghĩa là những giả thuyết của nhà trị liệu phải được duy trì trong một “trạng thái can thiệp” (state of intervention) (gợi nhớ một phạm trù của Gianfranco Cecchino – Nhà trị liệu gia đình trường phái Milan, Ý - ND), nghĩa là những giả thuyết ấy có thể được dùng đến hoặc bỏ đi cũng được. Việc kiểm định các giả thuyết và tìm kiếm những câu chuyện kể theo cách mới không thể xảy ra trong một bầu khí tiêu cực thiếu tính hỗ trợ, mà như là (lại sử dụng đến một từ quan trọng đối với những nhà trị liệu theo xu hướng hậu hiện đại) một sự “sáng tạo” chung giữa nhà trị liệu và các thành viên trong gia đình.

Một ví dụ tốt có thể được đơn cử ở đây đó là phương pháp “nhóm phản ảnh” (reflective team method), thường được dẫn ra như một thể thức kinh điển của xu hướng hậu hiện đại, được dựa trên sự hợp tác bằng ngôn ngữ (linguistic cooperation). Sự hiện diện một cách tự nhiên của những phiên bản đa dạng trong cách nhận thức về thế giới, nhất là trong bối cảnh trị liệu gia đình, là điều đặc biệt đáng lưu ý ở đây. Với rất nhiều những ý kiến phản ảnh đến từ những “bình luận viên” khác nhau sẽ khiến không ai “bị che mắt” trước vấn đề và sự mô tả câu chuyện sẽ được mở rộng dần dần thông qua sự chấp nhận của bệnh nhân (gia đình hoặc bất cứ thành viên tham dự nào trong phiên trị liệu “theo kiểu Andersen”) về những phát biểu có tính chất “hết sức khác biệt” so với “bức bản đồ” đã được lập ra cho đến lúc đó.

3, Tính thực dụng (pragmatism)

Phương pháp được trình bày trong phần trên đã minh họa một khía cạnh cốt lõi khác của nhãn quan hậu hiện đại. Kiến thức (dù là các học thuyết cao cấp, trừu tượng, hoặc sự hiểu biết ở trình độ thấp hơn của một gia đình cụ thể nào đó) cũng chỉ như phiên bản của một bản tường trình, của một khái niệm được khái quát hóa về những loại phương thức nào có thể được áp dụng thành công. Chúng ta không đòi hỏi phải nhận biết được chân lý, mà chỉ cần biết được một bản tường trình về nó – cái mà từ đó sẽ hướng dẫn chúng ta đến một phương thức có thể chứng minh là thành công. Không cần nói ta cũng thấy rằng phương thức ấy không nhất thiết cần được mô tả là “đúng”, mà chỉ đơn giản là “phù hợp” và mang lại những kết quả đáng kể cho việc trị liệu tâm lý.

Các hiện tượng cần được quan sát trong bối cảnh của chúng. Không có bối cảnh, chúng sẽ trở nên phiến diện, chẳng hạn như (ở đây ta sử dụng một ví dụ được ưa thích bởi những nhà trị liệu theo trường phái chiến lược) người ta không thể hiểu được sự chuyển động của những chiếc mang của một con cá đã giúp rửa sạch bờ biển như thế nào, nếu như xem xét chúng bên ngoài môi trường tự nhiên của chúng. Cách tư duy theo bối cảnh trong liệu pháp gia đình là cách nghĩ không thể tránh khỏi vì ta bắt buộc phải xem xét đến bản chất của việc (một cá nhân) là một phần của gia đình. Một con người là một phần của hệ thống gia đình và việc trị liệu hệ thống gia đình dựa trên thực tế đơn giản ấy. Kết quả là, cách trả lời cho câu hỏi “bệnh lý là gì?” đang thay đổi. Trái ngược với cách hiểu theo truyền thống về bệnh lý, nó “không được nhận thấy trong một người bệnh” mà, có thể nói, là được thấy trong những mô hình tương tác của gia đình. Bệnh nhân chỉ định (I.P.) chỉ là một người “mang bệnh lý”. Những triệu chứng có thể chứa đựng những đặc trưng mang tính ẩn dụ cho sự giao tiếp bên trong gia đình. Sự phân tích các mối quan hệ xoay vòng và các phản hồi sẽ dẫn đến sự chuyển đổi từ dạng ngôn ngữ đánh giá và phê phán sang thể loại ngôn ngữ có tính mô tả, hoặc với rất nhiều kiểu cách mô tả, về những câu chuyện được trần thuật có liên quan qua lại với nhau. Các cá nhân sẽ cùng cộng tác trong một mạng lưới có tính bối cảnh (contextual network).

Đón xem tiếp Phần 2

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...