“Symmetrical and
Complementary Relationships”
Tác giả: MARIE HARTWELL-WALKER, EdD
Nguồn: PsychCentral - August 11, 2017
Người dịch: TRẦN THỊ THU VÂN – Thạc sĩ Tâm lý, Chuyên viên Tâm lý trị liệu BV Đại học Y Dược Tp.HCM, Giảng viên Bộ môn Tâm lý, Khoa KH Xã hội-Nhân văn, ĐH Văn Hiến Tp.HCM, Thành viên CLB Trăng Non.
Vào thập niên 1960 một nhóm các
lý thuyết gia và tâm lý gia ở Viện Nghiên cứu Tâm thần (Mental Research
Institute – MRI) ở Palo Alto, California bắt đầu áp dụng một cách thức mới để nghiên
cứu về sự giao tiếp bên trong gia đình. Nhóm này nhận ra rằng những “cung phản
hồi có tính tự củng cố và tự sửa chữa” (self-reinforcing and self-correcting
feedback loops) có thể xảy ra trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thần kinh học, sinh
học tiến hóa và thậm chí trong hệ thống điện và máy móc. Những hệ thống như như
thế vẫn thường xuyên tự điều chỉnh. Một ví dụ hay đó là bộ phận điều hoà nhiệt độ
(thermostat) trong nhà. Khi bộ điều nhiệt báo rằng nhiệt độ đang xuống thấp, lò
sưởi sẽ được bật lên cho đến khi ngôi nhà ấm lên. Khi đạt đến nhiệt độ mong muốn,
bộ điều nhiệt sẽ khiến lò sưởi biết được nó có thể tắt. Và cứ thế nó hoạt động
xoay đi, xoay lại như vậy.
Nhóm nghiên cứu ứng dụng những
quan sát này vào trong tâm lý học, thấy rằng khi con người trong gia đình giao
tiếp với nhau, họ cũng đáp ứng bằng những khung phản hồi (feedback loops) tương
tự. Họ thấy rằng các cá nhân không chỉ phản ứng với nhau mà còn phản ứng với những
phản ứng của người khác. Điều này dẫn đến việc một người hoặc một nhóm lại phản
ứng với những phản ứng đó và… trong một vòng cung giao tiếp bất tận (endless
communication loop).
Một ví dụ hay được biết đến đó là
mối quan hệ “theo đuổi - xa cách” (pursuer-distance) ở một số cặp đôi. Khi người
theo đuổi (pursuer) cảm thấy có khoảng cách quá xa giữa họ với đối tác, họ sẽ làm
chuyện theo đuổi. Nếu người giữ khoảng cách (distance) cảm thấy chật chội, họ sẽ
rời ra xa để có thêm không gian. Nếu người giữ khoảng cách đi quá xa, người
theo đuổi lại theo đuổi. Và nó hoạt động xoay qua, xoay lại như vậy.
Nhóm đã chọn thuật ngữ điều khiển
học (cybernetics) để mô tả sự hiểu biết mới của họ về mối tương quan động năng
trong gia đình (family dynamics),. Về nguồn gốc, từ này được Norbert Weiner sử
dụng trong những năm 40, định nghĩa nó như là “khoa học nghiên cứu về sự điều
khiển và giao tiếp ở những loài động vật và máy móc”.
Nhóm MRI xác định hai loại cung
phản hồi: Kiểu đối xứng (symmetrical) – khi người ta đáp ứng lẫn nhau bằng những
cách tương tự nhau và kiểu bổ sung (complementary) – khi một người “nhường nhịn”
hoặc hỗ trợ người kia. Không có cách nào “đúng” hơn cách nào cả. Khi được bộc lộ
theo một cách lành mạnh, mỗi cung phản hồi đều để lại kết quả đưa đến sự triển
nở và thay đổi tích cực. Nhưng nếu không được kiểm định bởi những quy chuẩn văn
hoá hoặc những giá trị tích cực, vòng giao tiếp có thể mất kiểm soát, trở nên
không lành mạnh và mang tính hủy hoại.
Nhóm này chỉ rõ hơn những cách
lành mạnh cũng như không lành mạnh mà những mối quan hệ bổ sung hoặc đối xứng
có thể vận hành.
Trong những mối quan hệ đối xứng
lành mạnh (healthy symmetrical relationships), hai đối tác sẽ “soi gương” lẫn nhau.
Sự thành công của một người sẽ nhận được sự đón mừng (tôn trọng, ngưỡng mộ) bởi
người kia, mà sau đó người kia lại làm sao để có thành công ngang bằng và cũng
nhận được sự chúc mừng (tôn trọng, ngưỡng mộ) về sự thành công của họ… Một ví dụ
về mối quan hệ đối xứng không lành mạnh là sự cạnh tranh gay gắt giữa hai anh em
hoặc hai chị em. Không ai trong số họ có thể làm vơi đi nỗi lo âu luôn ở mức
cao của mình. Mỗi bên dành cuộc sống của mình để lo lắng dè chứng xem liệu em
mình, anh mình hay chị mình có đang chống lại mình và làm sao tự nỗ lực để trở
thành người giỏi nhất và tốt nhất.
Trong các mối quan hệ bổ sung
lành mạnh (healthy complementary relationships), mô hình hành vi của mỗi người được
làm cho “ăn khớp” hoặc bổ sung cho nhau. Đôi khi điều này thể hiện như một sự
phân công lao động (division of labor), khi một người gánh vác một việc nào đó thì
người kia ủng hộ cho sự thành công của người này; việc này khiến người kia cũng
thành công hơn để sau đó nhận được sự ủng hộ trở lại. Cả hai người đều công nhận
và đánh giá cao những đóng góp của người kia vào dự án này. Một mối quan hệ bổ
sung không lành mạnh có thể được thấy trong những cặp đôi khi mà một người ở vị
trí trội hơn, thể hiện sự kiểm soát và không tôn trọng người kia khiến người kia
đáp ứng lại theo kiểu trở thành một nạn nhân càng ngày càng thụ động hơn.
Để có được sự giải thích toàn
diện hơn về những mô hình giao tiếp như thế này, bạn có thể xem: Watzlawick, Beavin và Jackson, “Ngữ Dụng Học trong Giao Tiếp
của Con Người: Một nghiên cứu về những mô hình tương tác, bệnh lý và nghịch lý,”
(Pragmatics of Human Communication - A
Study of Interactional Patterns, Pathologies and Paradoxes, Norton Books, 1967)
- Norton Book, 1967.
Một số nhà tư tưởng cách tân và
lỗi lạc nhất trong tâm lý học thời điểm đó, trong đó có danh nhân Gregory
Bateson, Paul Watzlawick, Richard Fisch, Jules Riskin, Virginia Satir, Savador
Minuchin, R.D. Laing, Irvin D. Yalom, Jay Haley, và Cloe Madanes đã bị thu hút
bởi Palo Alto để tham gia vào nghiên cứu này và học hỏi lẫn nhau. Những công
trình mang tính thực nghiệm và đổi mới của họ đã định hình một nền tảng cơ sở cho
rất nhiều điều mà chúng ta thực hiện trong liệu pháp gia đình hiện nay.
Vì
sao? Bởi vì công việc ở Palo Alto là một sự chuyển đổi gây chấn động về mặt tư
duy. Điều khiển học đòi hỏi chúng ta không còn nhìn vào những hành vi có vấn đề
của những cá nhân trong một gia đình, mà thay vào đó phải xem xét gia đình như
một hệ thống, như một tổng thể có tính hữu cơ và sinh thái (organic and
ecological whole) mà những thành viên của nó đang thường xuyên giao tiếp và phản
ứng lẫn nhau.
Điều tất yếu khi đó là việc trị
liệu sẽ chuyển từ việc chữa cho từng cá nhân sang trị liệu cho sự giao tiếp
trong hệ thống này như một tổng thể. Vâng, lĩnh vực trị liệu gia đình đã tiến
triển và thay đổi hơn 50 năm qua. Nhưng điều quan trọng là chúng ta không nên quên
nguyên tắc cốt yếu từ công trình ban đầu này.
TẠI SAO PHẢI NHỚ ĐẾN ĐIỀU KHIỂN HỌC
Nó nhắc nhở chúng ta rằng không có mô hình nào là “đúng” trong
việc thiết lập một mối quan hệ.
Chỉ có con người mới tin rằng cách
mà chúng ta lựa chọn để cấu trúc mối quan hệ của chính mình là tốt nhất. Nhưng
có rất nhiều cách lành mạnh (cả theo kiểu đối xứng lẫn theo kiểu bổ sung) để người
ta có được một mối quan hệ ý nghĩa hoặc mối quan hệ hôn nhân. Cho dù bản thân nhà
trị liệu đang sống trong một cuộc hôn nhân có quan hệ bổ sung - theo kiểu giữa một
người là trụ cột gia đình và người kia là nội trợ, hoặc đang trong một mối quan
hệ đối xứng - dựa trên những nguyên tắc bình đẳng, thì công việc của nhà trị liệu
không phải là cổ suý cho những gì đang hiệu quả trong đời sống của riêng mình.
Công việc của nhà trị liệu chính là phải tìm kiếm sự lành mạnh hoặc tiềm năng của
sự lành mạnh trong những mô hình quan hệ riêng biệt của từng cặp đôi và giúp họ
củng cố nó.
Không phán xét
Việc mô tả mô hình giao tiếp mà
gia đình hay cặp đôi đang thể hiện sẽ giúp loại bỏ ý tưởng rằng có ai đó phải
chịu trách nhiệm cho các vấn đề. Thay vào đó, mỗi người trong số họ đều đang mắc
mứu vào một mô hình đang gây ra đau khổ và tuy không cố ý, mỗi người vẫn đang gia
cố cho mô hình đó.
Nó giúp “ngắt mạch” ý nghĩ cho rằng ai đã bắt đầu
Khi tư duy theo cách điều khiển
học, người ta không thể chỉ ra là ai đã bắt đầu cho một tương tác có vấn đề. Điều
này được hiểu là “phải có ai đó làm điều gì đó thì mới kích hoạt người khác” [Hiểu
theo kiểu: “Không có lửa, sao có khói” – ND], nhưng thật là vô nghĩa khi cứ mãi
đào bới cả lịch sử lên như vậy. Thực tế là A chỉ có
thể bị kích hoạt nếu A có sự nhạy cảm đối với bất kỳ điều gì mà B làm và
B khi làm nên “chuyện kích hoạt” ấy có thể đã không có bất kỳ ý nghĩ nào về việc
B đang làm nên điều gì đó đối với A. Sẽ hữu dụng hơn khi nhìn vào sự tuần hoàn của
tương tác giữa họ và giúp các bên liên quan có thể hiểu nó và quyết định cách
thay đổi nó.
Đặt một cặp đôi (hoặc các thành viên trong gia đình) vào cùng một
đội nhóm
Không quan trọng việc ai là người
có lỗi và cũng không quan trọng việc ai là người đã khởi đầu, cách này sẽ dễ
dàng giúp cho các cặp đôi hoặc những thành viên trong gia đình ngưng lại sự
xung đột nhau và thay vào đó chuyển sự chú ý của họ sang việc cùng nhau giải
quyết vấn đề.
Thay đổi mục tiêu trị liệu từ chỗ “sửa chữa” một cá nhân trở
thành việc điều chỉnh một mô hình.
Trong khi người ta thực hiện một
chuỗi “những phản ứng với những gì mà họ đang phản ứng lại với những phản ứng của
nhau”, thì mục đích được đặt ra là phải phá vỡ chu trình này, chứ không định
nghĩa vấn đề như là nhu cầu cần phải sửa chữa “vấn đề” của một hoặc vài người
nào đó. Thông thì kiểu tư duy này có những ảnh hưởng thú vị. Cặp đôi hoặc gia
đình sẽ thực hiện việc thay đổi mô hình giao tiếp của họ. Ngoài ra nó cũng làm giảm
sự phòng vệ của các cá nhân và khiến mỗi người trở nên cởi mở hơn để làm việc
trên những bận tâm riêng của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét