Bài gốc: Deuil et Thérapie Familiale: Quels Objets Flottants?
Dịch từ bản tiếng Anh: Mourning and Family Therapy: What Floating Objects?
Tác giả: JEAN-PAUL GAILLARD, YVELINE
REY
Nguồn: Cairn.Info - Liệu pháp Gia
đình 3/2001 (Quyển 22), Tr. 251-268
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
"Chúng tôi
luôn tìm kiếm lời giải thích khi chúng là những đại diện mà chúng tôi chỉ có thể
cố gắng phát minh ra" - P. Valéry (Bản điều trần số 1, trang 837)
Những đoạn in
nghiêng được lấy từ một văn bản, chưa được xuất bản của Lucien Halin, với sự
cho phép của ông
Xem
lại Phần 1- Phần 2 – Phần 3
Phần
4 và hết
"Vật
thể lưu hành" của tang chế
Vật thể lưu hành: circulating
objects (E) - objets circulants (F)
Bowlby (1984), khi quan sát những
đứa trẻ bị tách khỏi mẹ, đã mô tả một "hội chứng phản ứng với sự chia ly",
trong đó ông phân chia thành ba giai đoạn: phản đối, tuyệt vọng, tách rời (protest
– despair - detachment). Sau đó (Bowlby và Parkes 1980), điều chỉnh mô hình này
với tang chế ở người lớn, ông đã hoàn thành mô hình của mình và phân chia thành
năm giai đoạn: sững sờ, khẩn cấp để thu hồi đối tượng, rối loạn, tuyệt vọng, tổ
chức lại (stupor - urgency to recover the object - disorganization – despair -
reorganization).
M.F. Bacqué và M. Hanus, những
người đã nghiên cứu các quy trình tang chế trong nhiều thập kỷ, tác giả của “Que
sais-je? Le mourning” (2000), phân biệt
năm giai đoạn: trạng thái sốc (sự ngưng trệ về tâm-thể), hành vi tìm kiếm và
thoái lùi, hung hăng và tức giận, biểu hiện đau buồn vì thương tiếc, chấm dứt
quá trình đau thương.
Elisabeth Kübler-Ross (1975), một
bác sĩ đã dành cả cuộc đời chuyên môn của mình để hỗ trợ người hấp hối, đưa ra
một đường cong biểu diễn (cung tuyến) về thương tiếc (mourning curve) không
liên quan đến tang quyến, mà liên quan đến chính những người đang cận kề cái chết.
Đường cong này có năm giai đoạn: phủ nhận (sốc), tức giận (cảm xúc), mặc cả, trầm
cảm và chấp nhận (gia tăng tính tự chủ).
Nếu chúng ta so sánh hàng loạt
các giai đoạn này, chúng ta sẽ nhanh chóng nhận ra rằng sự khác biệt là rất ít
và chỉ nhấn mạnh sự kiên định của các tác giả về chi tiết này hay chi tiết khác
mà thôi. Dường như các tác giả đều đồng ý đối với hầu hết các nét chung và thứ
tự diễn ra các giai đoạn khác nhau. Đối với đường biểu diễn của Kübler-Ross, chỉ
mô tả quá trình đau thương của bản thân, có thể dễ dàng nhận thấy sự tương đồng
của nó với các chuỗi mô tả (của các tác giả) khác: trên thực tế, trong nhiều
năm chúng tôi đã làm việc để hình thành và giám sát các đội chăm sóc, chúng tôi
có thể thấy rằng đường cong này mô tả một cách rất cụ thể, không chỉ các trạng
thái mà người hấp hối đi qua, mà còn cả những trạng thái mà những người chăm
sóc người hấp hối, cũng như của thân nhân của những người hấp hối, đã trải qua.
Chúng tôi cũng nhận thấy rằng,
ngoài các phương pháp tiếp cận theo kiểu giản lược này, các giai đoạn ấy còn tiến
triển từ tập hợp các tương tác phức tạp, mà tùy theo yếu tố con người và bối cảnh,
có thể duy trì những đặc trưng động năng của tiến trình, hoặc ngược lại, sẽ
ngăn trở nó dưới tác động của vòng lặp đệ quy (recursive loops/bouclages récursifs)
hoặc sự tuyến tính hóa (linearization).
Vòng
xoắn ốc, vòng lặp và sự tuyến tính hóa của vòng xoắn ốc (Spiral,
loops and linearization of the spiral)
Sơ đồ ví dụ về một vòng lặp và sự tuyến tính hoá
Giận dữ (colère) Mặc cả (marchandage)
Trên thực tế, ba chuỗi giai đoạn
nêu trên tuân theo một mô hình tư duy tuyến tính và quy chuẩn mà ít có sự tương
đồng với các quan sát lâm sàng. Thật vậy, những gì quan sát lâm sàng cho thấy thì
trông giống như một hình xoắn ốc với ít nhiều hỗn loạn hơn là một đường cong theo
kiểu tuyến tính. Các nhóm tang quyến bị mất người thân (thương tiếc cho người
khác hoặc thương tiếc cho chính mình) thì di động qua lại một cách lộn xộn quanh
những vị trí không đổi: Một trong các thành viên của gia đình sẽ ở lại vị trí
mà một người khác đã bỏ lại, trong khi một người thứ ba lặp lại một cách đệ
quy hai hoặc ba vị trí mà anh ta điều hướng vô thời hạn (ví dụ: giữa sự từ chối,
giận dữ và mặc cả), và một người khác dường như bị neo giữ lâu dài ở một vị trí
duy nhất nào đó (ví dụ: tức giận hoặc buồn bã).
Để xây dựng và thử nghiệm một vật
thể nổi mới và chuyên biệt hơn, chúng tôi đã chọn sáu vật phẩm/tiết mục (items)
mà ít nhiều có thể tìm thấy trong mỗi chuỗi được tạo ở trên:
Trạng thái sốc -
Từ chối - Giận dữ - Mặc cả - Tuyệt vọng – Sự thông thái
(State of shock - Denial -
Anger - Bargaining - Despair – Wisdom)
Chúng tôi đã thử nghiệm sáu vị
trí này bằng cách đưa ra từng tư thế riêng lẻ cho những tang quyến có người
thân bị mất gần đây và nhiều năm trước của chúng tôi, một số rõ ràng đang đau khổ
và một số người khác thì đã bình yên hơn. Tất cả không mấy khó khăn khi ghi nhận
và mô tả về những thời điểm khác nhau ấy là đang hoặc đã xảy đến với họ. Chúng
tôi cũng đã thử nghiệm những thời khoảng này với những người chăm sóc
(caregivers), và tất cả những người này cũng đã công nhận rằng những tình trạng
khác nhau đó cũng thường xuyên xảy ra với họ, trước sự đau khổ và cái chết của
bệnh nhân. Và rồi, chúng tôi đề nghị họ đến các gia
đình tang quyến đã đến tư vấn bởi chúng tôi?
Làm
việc với gia đình về chủ đề mất người thân đặc biệt đau đớn
Bà D. điện thoại để đặt một cuộc
hẹn cho gia đình của bà. Hồ sơ ghi nhận qua điện thoại mô tả đây là một gia
đình thuộc tầng lớp lao động (cha và mẹ làm việc trong nhà máy) có ba người
con: hai trai 19 tuổi và 14 tuổi, và một gái gái 7 tuổi. Ông bà nội sống ở một làng
kề bên, ông bà ngoại đã mất khoảng 10 năm.
Khi được nhà trị liệu hỏi về lý
do liên hệ, bà D. bật khóc cho biết con trai lớn của bà đã tự tử trước đó 2 tuần.
Một cuộc hẹn đã được tổ chức ngay lập tức sớm nhất có thể, và cả gia đình hạt
nhân đã được mời đến.
Khi cả gia đình bước vào văn
phòng, có một sự tương phản rõ rệt về vẻ biểu hiện (Nguyên văn: “le contraste
analogique est saisissant”): Ông D., một người đàn ông cao lớn 45 tuổi,
vui tính; theo sau anh ta là đứa con trai 14 tuổi, khuôn mặt căng thẳng chứa đầy
sự tức giận, sau đó là một cô gái trông có vẻ hoàn toàn lạc lõng và cuối cùng
là người vợ, 40 tuổi, khuôn mặt tàn tạ vì tuyệt vọng và đẫm lệ.
Rõ ràng là sự mô tả đơn giản
này giúp nhà trị liệu được tháo gỡ khỏi quan điểm cổ điển nếu tiếp nhận làm việc
với chỉ một người; mà theo đó, trong trường hợp này, chỉ có bà D. mới có thể có
lý do để đến với cuộc tham vấn.
Chúng tôi yêu cầu ông D. giải
thích cho chúng tôi những gì đang xảy ra: ông nói thẳng với chúng tôi rằng bé Aline
(7 tuổi) đã được thông báo rằng anh trai của cô bé đã bị tai nạn và không biết thêm
gì nữa. Sau đó, chúng tôi giải thích với cô bé rằng sẽ có những cuộc thảo luận
nghiêm túc giữa người lớn và trong thời gian này, cô sẽ phải đợi trong phòng chờ
và sẽ được giải thích sau đó. Cô bé đồng ý đi chơi và chúng tôi đưa cho cô bé những
cuốn sách, giấy và bút dạ dành cho trẻ em, yêu cầu cô bé vẽ ra một gia đình cho
chúng tôi.
Chúng tôi nêu ý kiến với ông bà
D. rằng sẽ hữu ích nếu nhanh chóng cho cô bé biết điều gì đã thực sự xảy ra,
nhưng chúng tôi sẽ dành thời gian để cùng suy nghĩ về việc này. Rồi họ thông
báo thêm sau đó cho chúng tôi, rằng cô bé đã chứng kiến việc nhập quan và tham
dự đám tang của anh trai.
Ông D., dao động giữa cười và khóc
(thực tế là ông đang ở đỉnh điểm của sự kích động và tuyệt vọng), nói rằng ông
đã “nặng lời " với người con cả của mình 2 ngày trước khi xảy ra thảm kịch,
vì cậu cả đã làm hỏng chiếc xe của ông và còn tiêu hết tiền của mình một cách bừa
bãi. Dạo gần đây, cũng vì điều này, mà quan hệ giữa cha mẹ và cậu con cả đã trở
nên căng thẳng.
Cậu con trai cả đã treo cổ tự tử
và người cha, cùng cậu con trai thứ hai, đã không tìm thấy anh ta cho mãi đến
hai ngày sau đó, sau khi đã tìm kiếm khắp nơi suốt 24 giờ.
Như những gì nên làm trong liệu
pháp hệ thống, chúng tôi thực hiện việc trao đổi thông tin qua lại với từng
thành viên có mặt, nhấn mạnh những cảm xúc mà họ đang có và những chuyện mà họ
đã trải qua.
Vào cuối phiên làm việc cực kỳ cô
đọng và mạnh mẽ này, chúng tôi đề xuất phiên làm việc thứ hai để cùng làm việc
về các giai đoạn mà gia đình sẽ trải qua, cùng nhau cũng như riêng biệt từng
người. Chúng tôi cũng yêu cầu các bậc cha mẹ suy nghĩ về cách họ sẽ thông báo
cho cô con gái nhỏ của họ về việc anh trai cô ấy đã chết như thế nào.
Phiên
thảo luận về các giai đoạn của tang lễ
Khi trở lại làm việc, chúng tôi
giải thích với gia đình D rằng bất cứ ai cũng đều trải qua những tình cảm và cảm
nhận giống nhau khi mất đi một người thân yêu, và điều quan trọng là mọi người
phải biết và nhận ra chúng ở bản thân cũng như ở những người thân khác, trong
lúc đang khó khăn này. Cô gái cũng có mặt: bố mẹ vẫn chưa đủ can đảm để thông
báo thêm cho cô ấy, nhưng vì cuộc làm việc đang đi vào cung
tuyến (curve) nên không đòi hỏi chúng tôi phải đi sâu vào tất cả các chi
tiết, chúng tôi quyết định rằng cô bé sẽ tham gia vào buổi làm việc chung. Trước
tiên chúng tôi tìm hiểu tần suất gia đình đến viếng nghĩa trang: Ông D đã không
đến đó trong 15 ngày, còn bà D. đến 2 ngày trước đó; Hervé (cậu con trai thứ 2)
đã không ở đó trong một tháng (tức là kể từ đám tang) và Aline thỉnh thoảng đi với
mẹ khi không phải đi học.
Chúng tôi gợi lên những đồ vật
và quần áo thuộc về Cédric (cậu trai cả), nhấn mạnh cần phải suy nghĩ về việc cất
giữ, phân phát hoặc vứt bỏ chúng đi, tùy theo mức độ quan trọng của chúng.
Chúng tôi thông báo cho bà D. về điều có thể xảy ra rằng nếu một ngày nọ bà
"nhìn thấy", hoặc cũng có thể bà đã "nhìn thấy", cậu con
trai cả của bà kể từ sau khi cậu ấy qua đời, thì cũng không nên lo lắng vì đó
là một hiện tượng tự nhiên rất thường thấy (Gaillard 1996).
Chúng tôi vẽ ra trước mặt họ một cung tuyến (curve/courbe) - với các giai đoạn:
Trạng thái sốc - Từ chối - Giận dữ - Mặc cả - Tuyệt vọng - Thông thái và chúng
tôi bắt đầu khám phá ở thể thức thông thường:
Sốc: Bà D đã ở trong tình trạng nằm phủ phục trong
khoảng 15 ngày, Ông D trong trạng thái sốc 4-5 ngày (thực tế, ông vẫn còn sốc trong
cuộc gặp đầu tiên: trạng thái kích động tâm lý của ông đã làm chứng cho điều
đó), Hervé trong một tuần và Aline trải qua "một ngày không tin vào chuyện
đó".
Chối bỏ:
Bà D: “Nó không giống như ông
nói (chối bỏ): đó như một vết cắt (một cơn đau dữ dội và liên tục, vẫn còn một
tháng sau cái chết của con trai bà). Bà D. vẫn còn bị sốc.
Ông D: "Khi tôi tìm thấy
nó thì tôi không nghĩ nó đã chết: vẫn thấy nó đang tựa mình và suy nghĩ, tôi gọi
nó, nói chuyện với nó, tôi nghĩ nó đang cầm điếu thuốc lá ... Khi quan tài chưa
được đậy nắp, chúng tôi vẫn không tin vào điều đó… Một tuần sau đó, tôi vẫn đi
tìm con tôi, tôi nghe tiếng bước chân của nó trong nhà, tôi nhìn xem xe của nó
có ở trong sân hay không… (ông D khóc).
Hervé: "Cháu đã không thể
tin được điều đó trong một tuần ...”
Aline: "Đôi khi cả nhà
cháu tự nhủ rằng anh ấy có thể sẽ quay lại ...”
Giận dữ:
Ông D: “Ừ, thì vợ tôi trách tôi
khó tính, bà ấy vẫn giận tôi… Tôi cứ luôn thấy mình có tội, cảm giác đó không rời
khỏi tôi…”
Bà D: (gật đầu)
Hervé: (nghiến răng và mặt đanh
lại) "Vâng, cháu giận bố: ông ấy không nên la mắng anh trai cháu, cháu muốn
ông ấy ... (Ông D bật khóc, Bà D ngưng khóc)
Mặc cả:
Hervé: "Cháu tưởng tượng mình
có một cỗ máy thời gian ...”
Ông D: "Tôi luôn tự nhủ rằng
mình có thể làm được nhiều hơn cho thằng bé, rằng tôi lẽ ra phải nên ở đó, rằng
tôi đã có thể nói (điều này điều nọ) ... (Lưu ý đây là những gì đến từ một gia
đình khắng khít và người cha thực sự có mối quan hệ tuyệt vời với con trai cả của
mình).
Bà D: Vẫn còn trong nỗi đau như
bị cắt, bà không có biểu hiện gì về sự mặc cả.
Tuyệt vọng:
Ông D nói rằng bác sĩ đã khuyến
nghị cho họ nghỉ làm việc một tháng: "Lâu quá rồi, có lẽ sau 7-8 ngày nữa
tôi sẽ đi làm lại" (thoát khỏi tình trạng trầm cảm).
Bà D nói rằng bà không đủ sức để
tiếp tục ngay, nhưng cũng sẽ hữu ích cho bà nếu trở lại làm việc.
Hervé nói rằng trên thực tế, cậu
đã bắt đầu tha thứ cho cha mình và bật khóc, điều mà cậu chưa làm được trong phiên
làm việc. Người cha đang ngồi bên cạnh cậu ôm lấy cậu dịu dàng trong vòng tay của
ông và Hervé không đẩy ông ấy ra.
Chúng ta chỉ tiếp cận đến thời
điểm xoa dịu để xác định rằng nó sẽ đến cho tất cả vào đúng thời điểm của nó, bởi
vì cuộc sống vốn cần như thế. Cậu con trai đã chết được một tháng.
Chúng tôi không đề nghị phiên
làm việc thứ ba, vì biết rằng gia đình D đã phải hy sinh tài chính lớn để chi trả
cho hai buổi vừa qua; chúng tôi báo cho họ rằng chúng tôi luôn có mặt trên điện
thoại để tiếp chuyện với tất cả họ.
Gia đình D. chia tay chúng tôi,
người bố, người mẹ và Hervé tuyên bố mình đã "tốt hơn" khi đến hai buổi
làm việc này; và hai bố mẹ sẽ thông báo cho Aline về cái chết của anh trai cô.
Liệu
có thể có một sự hỗ trợ hệ thống cho gia đình có người thân bị mất?
Khi sử dụng trình tự hỗn loạn với
6 tiết mục này, chúng tôi vẫn thường xuyên quan sát hiệu quả của nó trong việc
hồi sinh các tương quan động năng của tang chế và giảm bớt đau khổ (reliving dynamics
of mourning and alleviating suffering). Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng tính
"khô khan" của ngôn từ và sự tuyến tính quá mức trong cách trình bày này
(digital “dryness” and its excessive linearity in the presentation) có thể được
phát huy một cách thuận lợi, với sự tôn trọng nhiều hơn dành cho “vũ điệu tương
tác” (interactional dance) nơi mà mọi chuyện đang được diễn ra (Gaillard, 2000)
và có xem xét nhiều hơn đến cả những trao đổi không lời (analog). Trong nghiên
cứu này trước khi tạo lập và xác nhận một kỹ thuật chuyên biệt hơn, chúng tôi
đã giữ lại 6 “yếu tố bất biến” (invariants), mà chúng tôi liên kết với 18 “biến tố” (variants) được ghi lại trong bảng dưới đây. Liệu công cụ mới này có thể trở
thành một loại vật thể nổi hay không, biết rằng theo định nghĩa thì đây không
phải là các kỹ thuật nhằm để phòng ngừa hoặc hợp lý hóa, mà đúng hơn là những
nghi thức thấm đẫm cảm xúc.
Bảng
6 yếu tố bất biến (Invariants): Sốc (État de choc) Chối bỏ (dénégation) Tức
giận (colère) Mặc cả (marchandage) Trầm cảm (dépression) Sự thông thái (sagesse)
18 biến tố (Variants):
Sự mù mờ (brouillard) - Phẫn nộ (ressentiment)
- Sững sờ (stupeur) - Mặc cảm có lỗi (culpabilité) - Đầu trống rỗng (tête vide)
- Sầu não (tristese) - Kích động (agitation) - Tuyệt vọng (désespoir) - Đau đớn
(douleur) - Trống rỗng (vide) - Mù quáng (aveuglement) - Nhân nhượng (apaisement)
- Tự dối lòng (mensonge à soi-même) - Đổi mới (renouveau) - Thịnh nộ (rage) - Phục
hưng (renaissance) - Muốn huỷ
hoại (envie de détruire) - Hoài niệm (nostalgie)
Bàn
luận và kết luận
Để trình bày phần đầu tiên của
tác phẩm này, chúng tôi đã chọn các cấp độ ngôn ngữ khác nhau: điều dường như quan
trọng đối với chúng tôi là phải thêm vào một sự trao đổi về “học thuyết ~ lâm
sàng” có tính hợp lý, nhằm để biểu thị, khách thể hóa và chức năng hóa (Morin,
1993), cho một "giọng nói lồng tiếng" (voice over), mang tính thơ
văn, mà đến phần mình, nó sẽ có thể làm
nên chiều kích của sự nhận cảm và chiều sâu của tình cảm con người, đặc biệt là
trong chủ đề tang tóc và trị liệu.
Các khám phá khác nhau được báo
cáo ở đây đã xác nhận rằng ý niệm về bối cảnh quả là phong phú hơn biết bao so
với cấu trúc nhân cách hoặc bất kỳ kiểu phân loại giản lược nào, nó không chỉ
như là một khuôn khổ để đọc hiểu một hiện tượng mà còn là điều kiện để trải
nghiệm một kiểu giao tiếp ít xa lạ hơn – đó là tái tham gia vào một tiến trình
động năng (dynamic process).
Nghiên cứu tiếp tục, như một việc
đã định trước, với sự tôn trọng đạo đức về việc cởi mở trong lựa chọn. Từ cuộc
trò chuyện này, nơi mà các mức độ trải nghiệm khác nhau có thể được gợi lên, đã
xuất hiện một số điều quan trọng như sau:
* Công trình nghiên cứu về các “đường
tuyến mô tả quá trình đau buồn” đã thách thức chúng ta về khía cạnh thời gian
và cách thức mà nó được huy động, cả ở cấp độ cá nhân và gia đình, khi một sự
kiện như thế xảy ra.
Các phản ứng cảm xúc đi kèm với
quá trình đưa tang này liên quan đến cảm giác tuyệt vọng gắn với sự biến mất đột
ngột, nỗi mất mát, sự đối mặt với cái chết, đôi khi được thêm vào một trải nghiệm
mất phương hướng tạo ra bởi cú sốc của sự biến động đột ngột với “cấp độ chồng
lên cấp độ”, đối với các thế hệ, địa vị, vai trò và các mối quan hệ trong gia
đình cũng như với thế giới bên ngoài.
Sau đó, chúng tôi đang tiến rất
gần đến những gì có thể được quan sát thấy trong stress sau sang chấn (De
Clerq, 1995). Do đó, ý tưởng về một quy trình chuyên biệt trong việc chăm sóc
các gia đình bị sang chấn do mất mát người thân, vạch ra một không gian đảm bảo
những chức năng bảo vệ, nhưng có tính giới hạn, và sẽ cho phép triệu chứng
chính, cụ thể là sự phá hủy mối liên kết bản sắc, có thể được tích hợp, ở mức tối
thiểu, với diễn biến của các quá trình tâm lý và xã hội mang tính chất tàn phá và
gây tan rã. Những tình huống “ranh giới” này, vẫn chưa được nghiên cứu kỹ càng,
đã đặt ra câu hỏi về tính chắc chắn trong nhận thức luận của chúng ta đối với chủ
đề về hiệu quả chữa lành của việc trị liệu. Sự “giải phức” cực độ (extreme decomplexification)
được quan sát thấy ở một trường hợp (hoặc hàng loạt trường hợp) mất người thân,
cả ở cấp độ cá nhân và gia đình, có thể đòi hỏi việc triển khai các công cụ mang
tính “tái kiến tạo từng phần” với độ phức tạp tối thiểu (partially reconstructive
tools of minimal complexity).
[Chú thích: Sự giải
phức – decomplexification – Là quá trình làm cho đơn giản hoá một hệ thống hoặc
một tiến trình, vốn/từng đơn giản, nhưng do sử dụng quá nhiều mà trở nên phức tạp,
khó sử dụng hoặc không còn có thể sử dụng được. Hoặc là một quá trình tạo nên
điều gì đó dễ dàng hơn từ điều được thấy là khó sử dụng – Theo Từ điển Urban
Dictionary]
Câu hỏi phụ sau đó sẽ là: liệu
việc khôi phục các điều kiện phức tạp tối thiểu trong các tương tác gia đình và
xã hội có đủ hay không?
* Quan điểm về định hướng trị liệu
tâm lý của chúng tôi dựa trên các mô hình tạo lập của gia đình (F: modèles
fondateurs de la famille; E: founding models of the family) (Caillé và Rey,
1996) với việc đánh giá lại những hành động phục hồi dựa trên những quan sát chuyên
biệt (Gaillard, 2000), trên tinh thần cởi mở mang tính kiến tạo, mà dường như
có lẽ chỉ có lợi cho việc thực hành của chúng tôi.
* Thử nghiệm được thực hiện với
“vật thể nổi” ngay lập tức cho thấy lợi thế của việc sử dụng, trong lúc bổ sung
phần này, có một thứ ngôn ngữ đã được sử dụng cho một nơi chốn khác, hỗ trợ
giao tiếp không lời (analog) và mở ra một thế giới ẩn dụ.
* Đối với chúng tôi, trong mọi
trường hợp, dường như công cụ này vừa duy trì tình trạng không thể đoán trước,
đồng thời vừa như là người mang đến sự trật tự. Trò chơi ngỗng dường như tương ứng
với yêu cầu kép này. Nó có thể được phong phú hoá thêm và được đưa vào giai đoạn
khi mà chân dung gia đình đang tương ứng với các sự kiện đã chọn trong bước đầu
tiên. Nó cũng có thể được bổ sung bằng một câu chuyện chưa hoàn thành (unfinished
tale) (cách tiếp cận này cần phải được thử nghiệm và sẽ là chủ đề của một
nghiên cứu khác). Điều quan trọng là thông qua câu chuyện được tái kiến tạo, sự
kiện sẽ trở nên có ý nghĩa và “những cuộc khởi nghĩa cùng với thơ ca có thể sánh
vai cùng nhau”, mở đường cho một hình thức chữa lành khả thi và một khả
năng tiếp cận đến việc tái đầu tư vào thế giới xung quanh mình. Khi chính những
điều kiện cho sự tạo lập ý nghĩa bị phá hủy, chứ không chỉ bị xóa mất, những
công cụ và mô hình cần phải được kiểm tra lại.
“Quan
điểm hệ thống về sự mất người thân đặt ra các chức năng khác với những chức
năng đã xảy ra trong đau buồn và thương tiếc. Đó là một khoảnh khắc mãnh liệt của
sự tổ chức lại và sáng tạo, những khoảnh khắc kết nối lịch sử của một gia đình
với những câu chuyện khác vốn tạo nên cuộc sống của loài người. Vầng tinh quang
soi sáng cho họ, và sau đó, lịch sử của họ được tái tạo và họ sẽ tiếp tục lộ
trình của mình".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét