Bài gốc: Deuil et Thérapie Familiale: Quels Objets Flottants?
Dịch từ bản tiếng Anh: Mourning and Family Therapy: What Floating Objects?
Tác giả: JEAN-PAUL GAILLARD, YVELINE
REY
Nguồn: Cairn.Info - Liệu pháp Gia đình
3/2001 (Quyển 22), Tr. 251-268
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
"Chúng tôi
luôn tìm kiếm lời giải thích khi chúng là những đại diện mà chúng tôi chỉ có thể
cố gắng phát minh ra" - P. Valéry (Bản điều trần số 1, trang 837)
Những đoạn in
nghiêng được lấy từ một văn bản, chưa được xuất bản của Lucien Halin, với sự
cho phép của ông
Phần
3
Chúng
ta học được gì từ cuộc hành trình nghi thức hóa trò chơi ngỗng với gia đình M.
Thông tin chắc chắn là rời rạc,
không đầy đủ và cần được tái tạo lại, chúng tôi hoàn toàn nhận thức được điều
đó, tuy nhiên nó cũng mở ra một số con đường để phản ánh:
* Quỹ đạo vừa thực tế vừa biểu
tượng đan xen này chắc hẳn sẽ “giới thiệu lại một thể liên tục trở thành một thể-không-liên-tục”
(E: undoubtedly reintroduces the continuum into the discontinuity; F: réintroduit
indubitablement du continuum dans le discontinue) lấy đó như một tấm vé vào cửa:
Đầu tiên, trên tám ô, câu chuyện đã được phác thảo, sau tất cả những gì rất đời
thường, về một gia đình với những thăng trầm và những chuyển động của gia đình
cho thấy khả năng quản lý các cuộc va chạm thường ngày của họ. Sau đó,
"tai nạn" đã xảy ra, và rồi xuất hiện như một "cái tang bị làm
trầm trọng thêm", mà theo cách diễn đạt của Robert Neuburger (2000), với ý
nghĩa rằng Hélène là người đại diện cho linh hồn của gia đình này. Bà được mô tả
là trụ cột, là khung xương vững chắc nhất cho các mối quan hệ với các thành
viên trong đại gia đình và với bạn bè.
* Nỗi sợ hãi bao trùm cho thấy sự
mất đi của người mẹ đã khiến cho tinh thần chung của gia đình cũng bị biến mất,
ít nhất là ý tưởng mà người cha và các con cùng đang chia sẻ. Xét trên cả mức độ
hiện tượng học (level of phenomenological reality) lẫn trên mức độ thần thoại (mythical
level), nỗi sợ hãi về sự mất mát kép này (double loss) sẽ làm biến đổi mối quan
hệ của gia đình này với thế giới bên ngoài và nói chung cũng là tình trạng của
những gia đình đang đối mặt với tang tóc trầm trọng.
* Điều này có nghĩa là trong cuộc
hành trình của trò chơi ngông, tang chế (mourning)
xuất hiện như một bệnh nhân chỉ định (identified patient). Điều này khẳng
định giả thuyết làm việc của các nhà nghiên cứu về hội chứng sau sang chấn (post-traumatic
syndrome): rằng sự kiện sang chấn là loại “sự kiện được chỉ định để động vừa như
là nguyên nhân vừa như là kết quả” (Payen de la Garanderie và Sadlier, 2000) và
sẽ là bất lợi nếu chuyển sự chỉ định (designation) này sang cho con người và/hoặc
cho quá khứ trước đó: Cho đến khi Hélène qua đời, gia đình M cho thấy rằng họ
đã có thể đối mặt và giải quyết được những khó khăn hiện sinh đời thường (banal
existential difficulties). “Thời gian tạm ngưng” do Michel gợi lên không chỉ là
hệ quả của sự kiện này mà còn phản ánh chiến lược sinh tồn (survival strategy)
được tạo nên trong gia đình này. Thật vậy, khoảng “thời gian ngưng lại” này (this
"out of time") còn có chức năng tiếc thương cho sự mất mát, tìm kiếm
ý nghĩa cho sự mất mát ấy, thực hiện việc sắp xếp lại tâm lý cá nhân nhưng trong
mối quan hệ, và khôi phục lại một cái nền/khuôn mang tính huyền thoại (E:
mythical frame; F: trame mythique).
* Tuy nhiên, có điều cũng được thấy
rõ đó là sự tang thương đã kéo dài trong một thời gian triền miên bị mất khả
năng không giao tiếp, điều này “thể hiện ít chức năng của triệu chứng hơn là
triệu chứng của chức năng” (Nguyên văn: E: “represents less the function of the
symptom than the symptom of the function”; F: “représente moins la fonction du
symptôme que le symptôme de la function”), để trở lại với cách trình bày của Guy
Auloos (1995). Cái “tiến trình-trạng thái” (process-state) gây nên bởi thực trạng
này đã báo hiệu về một sự nhiễu loạn chức năng trong chiến lược ứng phó của gia
đình này. Và chính vấn đề này mới là điều quan trọng cần xem xét đến trong can
thiệp điều trị.
* Điều thú vị của cuộc hành
trình được nghi thức hóa này là nó không tự hài lòng với việc cung cấp một công
cụ để xác định, thậm chí để đánh giá vấn đề. Nó cũng hữu ích trong việc xác định
sự kiện tang thương như là một thời gian có giới hạn, với những điều có trước đó
và những thứ sau đó. Nó cung cấp “một cấu trúc không gian-thời gian mới” (a new
spatio-temporal structure) để cho phép sự kiện bi thảm này có thể được ghi chép
lại trong bình diện trải nghiệm, và sau đó là trong một câu chuyện, mà không phủ
nhận sự bất hạnh và nỗi đau liên quan đến nó. Việc giới thiệu lại khoảng thời
gian đã sống này đi kèm với khả năng dễ đọc hơn về “những phẩm chất mới nổi” (emerging
qualities) của nhóm người mà tất cả các nhân vật chính đều đang họp mặt. Các khắc
hoạ về tương lai, trong những phiên trị liệu tiếp theo sau đó, sẽ được tiếp nhận
để mô tả và phát biểu ra những gì có thể đã chưa được nói đến.
* Sau cùng và trong sự đối âm (*):
(*) Chú thích thêm: Ở đây các tác giả dùng một thuật ngữ trong âm nhạc là “contrepoint” (F) hoặc “counterpoint” (E) ý chỉ về những giai điệu (tone) khác nhau đang cùng bè xướng như trong thể loại hát acapella - một cách hát được tổng hợp từ những "bè" khác nhau mà nếu nếu tách rời ra thì không thành giai điệu nào cả (ND).
Câu chuyện cuộc đời của gia
đình này, được tạo dựng lại theo nhiều giai đoạn, từ thực tế của một vụ tai nạn
đến sự chuyển hóa mang tính biểu tượng (symbolic metabolization), đã thúc đẩy sự
cá biệt hoá bản thân (E: “the differentiation of the self”; F: “la
différenciation de soi”), thông qua sự đối đầu giữa mục đích cá nhân với những
mục đích chung. Bất hạnh gắn kết con người lại với nhau và bầu khí gia đình được
gia cố ấy sẽ cung cấp một sự hỗ trợ thiết yếu, không thể phủ nhận được. Tuy
nhiên, nếu giai đoạn này kéo dài, nó cũng sẽ gây kìm hãm nhu cầu tình cảm của mỗi
cá nhân, mà điều này có thể dẫn đến những ức chế lớn, những căng thẳng ngày
càng đáng kể hơn và có thể đi xa đến mức rạn nứt, đặc biệt là cho giai đoạn tuổi
vị niên. Do đó, đây là chủ đề của việc tạo nên bối cảnh, đưa ra các tình huống trải
nghiệm có khả năng kích hoạt các nguồn lực và thậm chí những năng lực tự sửa chữa
(cả của cá nhân và của nhóm), do đó có thể xem xét cả sự bất hạnh lẫn các biến thể
của nó (malheur et sa metamorphose) (Cyrulnik, 1999).
“Xã
hội càng nguyên sơ, việc tang chế càng rõ ràng, càng được tổ chức và được nghi thức
hoá.
Xã
hội càng phát triển tinh vi hơn, tang chế càng ít hiển thị và càng bị tầm thường
hóa... Và nếu sự ra đi của một người thân là chuyện thường tình trong lịch sử
nhân loại, thì nỗi đau mất mát dường như sẽ làm tê liệt mọi sự sáng suốt như là
hậu quả của sự kiện đó. "
Có vẻ như cuộc hành trình chơi
ngỗng với gia đình M. đã có thể khôi phục lại một “diện mạo” cho tang chế và
nghi thức hóa đoạn đường chuyển tiếp này. Nhưng nếu gia đình này tự giới thiệu
mình như một hệ thống “dừng lại”, thì liệu rằng nó có cho thấy “một bệnh lý”,
theo đúng nghĩa phân loại bệnh lý của thuật ngữ này không?
Chúng tôi tin rằng tang chế, mặc
dù có thể gây nên những đau khổ tồi tệ nhất, nhưng không phải là một căn bệnh:
Đó là một cuộc hành trình mà một ngày nào đó bất cứ ai cũng phải trải qua và những
bối cảnh văn hóa xung quanh, tùy theo thời gian và nơi chốn, đều có thể mang lại
những phương cách ít nhiều cũng có hiệu quả.
Chẳng có gì là bí ẩn đối với bất
cứ ai rằng các mô hình hệ thống (systemic models) đã triệt để định hình lại những
cách thức phân loại bệnh lý, vốn đã được thừa hưởng một phần từ những bác sĩ
tâm thần của thế kỷ 19 - mà nay DSM cung cấp cho nó một “kiếp sống” thứ hai -
và một phần khác từ Freud. Nếu ngày nay cần phải phân loại quá trình đau thương
theo một quan điểm giản lược hoá (reductionist point of view) vốn đồng quan điểm
với cách phân loại bệnh lý (dominant nosography), thì hiển nhiên nó sẽ được
phân loại, không chỉ trong danh mục các trạng thái trầm cảm, mà còn là trong
danh mục DSM của các trạng thái stress cấp tính (DSM category of acute stress
states), điều mà những học theo Freud gọi là nhiễu tâm thực sự (E: actual
neuroses; F: névroses actuelles). Trên thực tế, chúng ta đã mang ơn S. Freud những
thuật ngữ mà nay đã được sử dụng trong ngôn ngữ thông dụng, như thuật ngữ “đưa
tang” (F: travail de deuil; E: work of mourning) và thuật ngữ “mất mất mát đối
tượng” (E: loss of object; F: perte d’objet). Cần phải nhấn mạnh là Freud đã
không nêu rõ điều này liên quan đến tang chế, rằng nó không phải là một căn bệnh
và do đó không cần phải điều trị:
“Chúng tôi hoàn
toàn mong đợi rằng việc này (mất người thân) sẽ được khắc phục sau một thời
gian nhất định và chúng tôi cho rằng việc làm phiền nó là không phù hợp, thậm
chí còn có thể gây hại"
“We fully expect
that it (the bereavement) will be overcome after a certain time and we consider
that it would be inappropriate, even harmful, to disturb it".
(Freud 1915)
Từ quan điểm này, chúng tôi
nghĩ rằng, không vô ích khi nhớ lại có một thời điểm khi mà quá trình đau thương
rất thường được "điều trị" theo cách “quá giản lược” (hyperreductionist)
như là bị trầm cảm, một cách thức chẳng có tác dụng nào khác hơn ngoài việc tuyến
tính hóa (linearize) thời kỳ tuyệt vọng, biến nó thành một chuyện kéo dài
(Nguyên văn: “chroniciser… du deuil”; “chronicize it”), hoặc xem nó như một biểu
tượng của sự tiếc thương. (Neuburger 1988, Gaillard 1994) Tuy nhiên, những biểu hiện của đau đớn, phiền
não và tuyệt vọng chỉ là biểu hiện nhất thời trong một quá trình, một trình tự
những công việc mang tính tái tạo để tái hòa nhập vào dòng chảy cuộc đời.
Các “vật thể trôi nổi”
(floating objects; còn gõi là “vật thể lưu hành” – circulating objects), “đứa con
đẻ” hiệu quả của nhận thức luận kiến tạo (constructivist epistemology), đã tránh
được mọi sự định danh mang tính chất giản lược (any reductionist designation): Đối
với gia đình M., chúng tôi đã cùng họ nhận thấy rằng trò chơi ngỗng giúp họ có
thể mở rộng lại phạm vi lựa chọn (range of choices) (von Foerster 1991), bên trong
một hệ thống vốn đã trở nên rườm rà nhưng không có tính sáng tạo.
Tuy nhiên, trong khi công cụ
này được chứng minh là có liên quan hoặc thậm chí có tác dụng với các gia đình
“đã yên vị” (F: installées) trong một giai đoạn trầm cảm ít nhiều đã diễn ra sau
khi có người thân bị mất, chúng tôi lại có ít kinh nghiệm về việc sử dụng nó với
những gia đình vẫn còn đang trong tình trạng sốc (do mất mát). Để tìm kiếm một
vật thể nổi cụ thể hơn cho giai đoạn hậu sang chấn sau khi mất người thân,
chúng tôi đã tiến hành trên các giai đoạn khác nhau theo định nghĩa của các tác
giả chính đã gắn bó nghiên cứu chúng.
Đón
xem tiếp Phần 4
dạ cám ơn dịch giả nhiều ạ
Trả lờiXóa