“Review of a case study in light of Bowen Theory: Differentiation
of Self”
Tác giả: ESRA NIHAN
BRIDGE - Kadikoy Counseling and Research Center
Nguồn: Life Skills
Journal of Psychology, 2019; 3(5), 65-72
Người dịch: BS NGUYỄN
MINH TIẾN
Xem lại Phần 1
Phần 2
Theo Bowen, các xung đột hôn nhân (marital conflict) được bắt nguồn
từ sự cá biệt hoá kém và sự xung đột ấy tạo nên tình trạng áp lực cao bên trong
các cặp đôi. Trong thời kỳ “trang điểm” (“make up” period), nguồn năng lượng
tình cảm này xuất hiện dưới dạng sự gần gũi. Trong thời kỳ xung đột (conflict
period), nó chuyển thành sự giận dữ. Xung đột hôn nhận định ra chu kỳ quan hệ của
cặp đôi như sau: gần gũi, xung đột, xa cách, “trang điểm”, rồi lại gần gũi
(Bowen, 1976).
Mất chức năng ở một
trong hai người của cặp đôi (Dysfunction in one spouse) dường
như là sản phẩm của một sự cá biệt hoá ở mức độ rất kém trong hôn nhân. Do
trong thực tế sẽ có một trong hai người thích ứng với kiểu hôn nhân này, người ấy
sẽ đánh mất bản thân mình và trở nên bị “tan biến” (Nguyên văn: “absorbed” –
nghĩa là bị “hấp thụ”) bởi người bạn đời có ưu thế hơn. Bên cạnh việc mất đi
vai trò chức năng của mình, người “thích nghi” cũng sẽ mất khả năng lấy những
quyết định cho bản thân và trở nên hoàn toàn phụ thuộc. Khi tình trạng lo âu
gia tăng bên trong mối quan hệ, nó sẽ kích hoạt một tình trạng mất chức năng ở
người “thích nghi”, ví dụ các vấn đề về thể lý, vấn đề về cảm xúc hoặc vấn đề
khó khăn trong quan hệ xã hội, mà từ đó có thể phát triển nên những bệnh mạn
tính. Những căn bệnh này lại củng cố thêm sự “hấp thụ” tình trạng cá biệt hoá yếu
kém.
Sự sút kém ở một
hoặc vài đứa con (Impairment of one or more children) Điều
này ngụ ý chỉ sự phóng chiếu nỗi lo âu từ cha mẹ sang cho các con, bởi việc quá
lo lắng về những thái độ của con, sức khoẻ của con hoặc tương lai của con (Bowen,
1976). Bowen cho rằng sự yếu kém ở một đứa con thực ra là sự phóng chiếu của
tính cá biệt hoá kém (a projection of undifferentiation) và quá trình này sẽ
gây trở ngại cho sự cá biệt hoá bản thân của đứa con (Bowen, 1976). Tiến trình phóng chiếu trong gia đình (Family projection
process) giải thích cho quá trình làm hỏng về mặt cảm xúc (process of
emotional impairment) ở một hoặc vài đứa con. Lúc bắt đầu, sự phóng chiếu thường
chỉ hướng đến một đứa con. Tuy nhiên, nếu mức độ cá biệt hoá (của cha mẹ) là rất
kém, những đứa con khác cũng dần có thể bị liên quan (Bowen, 1976). Sự lựa chọn
một đứa con thường có liên quan đến tình trạng stress của người mẹ khi sinh đứa
con đó, vị trí người đó trong các anh chị em (sibling position – chẳng hạn đứa
con cả hoặc đứa con út), giới tính (đặc biệt là đứa con duy nhất của giới tính
đó) và mức độ gần gũi tình cảm giữa đứa con với cha mẹ (Bowen, 1976). Bowen nêu
ra một ví dụ quen thuộc nhất đó là một người mẹ có hành vi bảo vệ đứa con quá mức
để nhằm làm giảm bớt sự lo âu của chính mình (Cook, 2007). Khi người mẹ cảm thấy lo lắng, đứa con cũng bắt
đầu cảm thấy lo lắng. Tuy nhiên, nỗi lo âu này đã được đứa con nhận lấy từ cha
mẹ của nó và đứa con cũng nhận sự chăm sóc quá mức từ người mẹ. Tiến trình
phóng chiếu này tạo nên sự hoà lẫn cảm xúc (emotional fusion) trong mối quan hệ
và từ đó có thể dẫn đến tình trạng mất chức năng (dysfunction) cho đứa con
(Bowen, 1976).
Sự đoạn giao về
tình cảm (Emotional cutoff) mô tả một sự chia ly và tách bản thân ra
khỏi gia đình gốc (family-of-origin) nhằm thoát khỏi xung đột. Bowen cho rằng
hiện tượng bỏ nhà rời xa gia đình gốc là một dấu hiệu cho thấy sự phụ thuộc về
mặt cảm xúc (emotional dependence), mà điều này cũng tạo nên tình trạng dễ tổn
thương (Bowen, 1976). Sự nỗ lực để giải quyết các vấn đề về cảm xúc với các
thành viên trong gia đình tự nó cho thấy một sự đoạn giao (cutoff) mà điều này
có nguồn gốc từ một sự gắn bó không suôn sẻ (unresolved attachment) (Haefner,
2014).
Việc có mối quan hệ gắn bó
không tốt đẹp với cha mẹ cũng là một chủ đề chính yếu của sự cá biệt hoá bản
thân. Bowen tin rằng khi một người cá biệt hoá kém trải qua nhiều lo âu trong
gia đình, người đó có khuynh hướng sẽ cắt đứt (đoạn giao) những tiếp xúc tình cảm
bên trong gia đình (Skowron & Friedlander, 1998).
Sự đoạn giao tình cảm thường được
chuyển từ các thế hệ trước sang các thế hệ sau và chúng có thể lập lại (Cook,
2007). Khi đã từng có một sự đoạn giao trong quá khứ, cũng có thể xảy ra các
tình trạng xung đột hôn nhân, tự cô lập (withdrawal) hoặc đoạn giao tình cảm ở
đời con sau này. Vì lý do đó, việc có sự đoạn giao trong gia đình ở các thế hệ
trước có thể dẫn đến tình trạng mất chức năng trong gia đình và làm nên những
thành viên cá biệt hoá kém (Bowen, 1976). Nghiên cứu của Jenkins và cs. (2005)
đã hỗ trợ cho ý tưởng của Bowen khi nêu rằng sự đoạn giao tình cảm là những điều
báo trước cho các vấn đề tâm lý (Jenkins, Buboltz Jr., Schwartz, & Johnson,
2005).
Quá trình phóng chiếu trong gia
đình tiếp diễn qua nhiều thế hệ (Haefner, 2014). Tiến
trình truyền lan đa thế hệ (multigenerational transmission process) nhấn
mạnh đến việc chuyển những xung đột từ thế hệ này sang những thế hệ khác thông
qua quá trình phóng chiếu bên trong gia đình. Như đã nêu trên, sau khi xuất hiện
sự yếu kém ở một đứa con, đứa con đó không thể cá biệt hoá chính nó với cha mẹ
và biểu hiện tình trạng mất chức năng. Kết quả là, người con ấy sẽ mang theo
tình trạng cá biệt hoá kém của mình sang các thế hệ sau bằng cách dẫn dắt các
con của mình theo chiều hướng cá biệt hoá kém (Bowen, 1976).
Bowen chấp nhận khái niệm về vị trí trong các anh chị em (sibling position) từ
công trình của Toman’s (1961) và ông mô tả thuật ngữ này như là “những đặc
trưng quan trọng của thứ tự sinh trong gia đình” (significant characteristics
of birth order in the family). Khái niệm này rất quan trọng khi giải thích sự lựa
chọn một đứa con trong quá trình phóng chiếu trong gia đình. Bowen giả định rằng
đứa con cả là vị trí thường được chọn để hợp thành bộ ba (triangulated) với cha
mẹ và con cả là người cá biệt hoá kém nhất (the least differentiated person) trong
gia đình, trong khi vị trí con út thì thường là ngược lại (Bowen, 1976).
Sự thoái triển về
mặt xã hội (Societal regression) minh hoạ cho mối liên kết giữa
hệ thống gia đình và xã hội bên ngoài. Bowen tin rằng các vấn đề về cảm xúc
trong gia đình cũng tương tự những vấn đề về cảm xúc bên ngoài xã hội. Khi có
lo âu tồn tại, chức năng lý trí (trí năng) sẽ dừng lại và các quyết định cảm
tính sẽ xuất hiện để làm giảm lo âu ở cả hai hệ thống đó (Bowen, 1976). Tình trạng
mất chức năng này cũng có thể lập đi lập lại và không chỉ có thể được quan sát
trong gia đình mà còn xuất hiện cả trong xã hội. Nói chung, sự lo âu sẽ gây nên
tình trạng thoái triển (regression) về lại mức vận hành chức năng có trước đó ở
cả hai hệ thống (Bowen, 1976).
Sau khi xem xét lý thuyết của
Bowen, chúng ta nhất thiết phải vận dụng nó vào trong một nghiên cứu trường hợp
(case study). Nghiên cứu ca sau đây đã được khảo sát, cho thấy những điểm tương
đồng nổi bật đối với những đặc trưng của lý thuyết và phương pháp can thiệp
này.
NGHIÊN
CỨU TRƯỜNG HỢP
Amy là một phụ nữ 41 tuổi , gốc
là người từ vùng Kavkaz (Caucasian), đã tìm đến trị liệu vì những vấn đề khó
khăn trong mối quan hệ lãng mạn của bà. Bà mong được giúp về tình trạng thường
xuyên hay khóc, cảm giác đau lòng và tình trạng giao tiếp không tốt giữa bà với
người bạn tình của mình. Bà chưa bao giờ tìm đến sự hỗ trợ tâm lý và cũng chưa
từng được chẩn đoán với bất cứ rối loạn tâm thần nào trước đó. Bà cũng chưa từng
kết hôn và chỉ có một đứa con – một đứa con trai nay đã 17 tuổi. Bà và người bạn
trai không sống cùng chỗ và họ đã có mối quan hệ với nhau trong hai năm qua.
Theo Amy, bà đã làm bất cứ điều
gì mà người bạn trai đã yêu cầu, tuy nhiên, một hôm người đàn ông kia đã bày tỏ
ý muốn rời xa bà (Nguyên văn: “her partner wanted some space from Amy”). Mặc dù
cả hai không cắt đứt quan hệ, nhưng khi đến trị liệu, Amy liên tục khóc. Bà bận
tâm quá mức đến việc mình nên làm gì để người tình có thể quay trở lại và liệu
người ấy đang nghĩ gì về bà. Ngoài ra, bà cũng thường xuyên tìm kiếm sự đồng
tình với mình.
Bà là người lớn lên trong một
gia đình có cha, mẹ, chị gái, và hai anh trai. Bà là người con út. Amy cho biết
rằng vào giai đoạn đầu trong hôn nhân của cha mẹ, cha bà có mối quan hệ với một phụ
nữ khác và mẹ thì chưa bao giờ tha thứ cho ông. Nhưng dù không tha thứ, họ vẫn
duy trì cuộc hôn nhân cho đến khi người cha qua đời. Bà nói rằng cha mẹ bà đã
dành cả đời để sống im lặng bên nhau. Vì Amy là con út và tất cả những anh chị
lớn đã rời khỏi gia đình trước bà, nên Amy nói rằng bà đã mắc mứu rất nhiều vào
mối quan hệ của cha mẹ mình. Mẹ luôn luôn nói chuyện với bà về cha bằng một
cách nói rất tiêu cực và khiến cho Amy rất ghét cha trong suốt những năm tháng
tuổi vị thành niên của bà.
Theo lời kể của mẹ, bà ngoại của
Amy đã đến Mỹ sau khi kết hôn với ông ngoại. Amy chẳng bao giờ được thấy ông
ngoại vì ông đã chết trước khi Amy ra đời. Amy cũng chỉ gặp bà ngoại được vài lần
trong đời. Do bà ngoại có nhiều hôn nhân khác nhau (bà đã kết hôn 4 lần) nên mẹ
của Amy cũng giữ một khoảng cách xa với bà ngoại. Mẹ cũng không duy trì sự tiếp
xúc với các anh chị em, nên Amy cũng có mối quan hệ xa cách với các anh chị em
họ của mình.
Amy giờ đang sống khác thành phố
với mẹ. Bà nói chuyện với mẹ mỗi ngày và thường xuyên thăm viếng mẹ. Bà mô tả mối
quan hệ này là rất gần gũi. Khi Amy gặp vấn đề với người bạn trai, bà có thể kể
chuyện này cho mẹ nghe. Tuy nhiên, Amy bảo rằng trong thời gian này bà không
nói nhiều về chuyện này với mẹ vì bà sợ mẹ sẽ buồn phiền. Amy nói rằng nếu mẹ
mà biết về chuyện này, bà hẳn sẽ gọi điện và trách mắng người đàn ông kia, và
việc đó có thể làm gia tăng thêm tình trạng căng thẳng trong mối quan hệ của
Amy với bạn trai.
Việc khảo sát mối quan hệ giữa
Amy với người bạn trai cho thấy người đàn ông kia đã bị bắt gặp là đã quan hệ với
một cô gái trên đường phố. Amy cũng lưu ý rằng người tình của bà từng có rất
nhiều bạn bè nữ gợi cảm trong hồ sơ mạng xã hội của ông ta và những người phụ nữ
ấy cũng thường hay gửi tin cho ông ta. Amy cũng nói rằng ông ta thỉnh thoảng
yêu cầu bà gửi cho ông ta những bức ảnh khoả thân của bà và bà đã làm theo yêu
cầu. Tuy nhiên, gần đây ông ta yêu cầu Amy gửi cho ông ta một bức ảnh khoả thân
của Amy cùng với một người khác thì điều này đã khiến Amy cảm thấy rất khó chịu.
Xem xét kỹ cuộc đời của Amy và
gia đình gốc của bà, thật dễ để nhận thấy rằng trường hợp này có thể minh hoạ
cho những đặc trưng tương tự như những gì Bowen đã mô tả về mức độ yếu kém
trong sự cá biệt hoá bản thân. Mặc dù trong trường hợp này có thể có những khía
cạnh và những cách giải thích khác nhau, bài viết này xin chỉ tập trung vào lý
thuyết của Bowen. Dựa trên những định nghĩa của những thuật ngữ đan xen nhau
trong lý thuyết Bowen, ta có thể giả thuyết rằng Amy đang nỗ lực trong sự cá biệt
hoá bản thân. Việc từng tham gia hợp thành bộ ba với cha mẹ, những sự đoạn
giao cảm xúc, phản ứng dựa trên cảm tính, và mối quan hệ mắc mứu (enmeshed relationship)
với mẹ, cùng mối quan hệ bị hoà lẫn với người tình, tất cả đều gợi ý về một mức
độ cá biệt hoá bản thân yếu kém.
Lịch sử đứng về phía mẹ để đối
đầu với cha của Amy có thể được định nghĩa là một sự hợp thành bộ ba (triangulation),
trong đó Amy và mẹ là một bộ đôi (dyad) đối với người cha. Theo định nghĩa của
Bowen (1976), đứa con út có nguy cơ bị hợp thành bộ ba trong xung đột hôn nhân
của cha mẹ, và gia tăng khả năng tham gia vào trong mối quan hệ tam giác ấy.
Ngay cả khi cha Amy qua đời, cũng dễ thấy rằng Amy cũng vẫn còn một mối quan hệ
chặt chẽ với mẹ của mình.
Sự đoạn giao tình cảm cũng là một
yếu tố quan trọng khác trong cuộc sống của Amy. Tính chất đặc trưng này cũng được
chuyển từ gia đình của mẹ thành sự xa cách giữa Amy với các anh chị em của mẹ
và các anh chị em họ của Amy và nó cũng hỗ trợ cho ý tưởng về một sự cá biệt
hoá kém. Bowen (1976) cũng nhấn mạnh rằng rời bỏ nhà để cách xa với gia đình gốc
cũng là một dấu chỉ khác của sự phụ thuộc tình cảm và nhu cầu cần có sự gần
gũi.
Một yếu tố đáng kể khác cho thấy
mức độ cá biệt hoá kém ở Amy đó là khuynh hướng lấy những quyết định dựa theo cảm
tính. Ví dụ, khi Amy lên kế hoạch cho một kỳ nghỉ đến Peru trong 4 ngày, bà
cũng đã mời mẹ mình đi cùng. Tuy nhiên, bà mẹ đã thay đổi lịch trình và nơi đến,
điều này khiến Amy phải chấp nhận đến một nơi mà bà không muốn trong kỳ nghỉ ấy.
Khi tôi (tác giả) hỏi lý do tại sao, bà đáp rằng nếu như bà không đi và rồi khi
mẹ bà qua đời, khi ấy bà hẳn sẽ cảm thấy rất tệ. Việc này cho thấy rằng người mẹ
vẫn có thể ảnh hưởng trên các quyết định của Amy và Amy lại cảm thấy có lỗi khi
mẹ đã bất chấp những cảm nhận của Amy. (Lưu ý: đây là cách phân tích theo ý
riêng của tác giả bài viết – ND)
Sự hoà lẫn (fusion) cũng được
thấy trong mối quan hệ giữa Amy với người tình. Bà đã chấp nhận những ý kiến của
người tình và xem chúng như là những ý kiến của chính mình. Khi bà nhận ra người
tình đã lừa dối mình, dù rằng trong lòng rất buồn, bà vẫn nói: “Mọi phụ nữ đều
bị người tình của mình phụ bạc; đó không có nghĩa là thế giới này đã kết thúc”.
Khi nhà trị liệu thách thức ý nghĩ này, Amy đã nói: “Bạn trai tôi đã nói như thế
với tôi, và bởi vì anh ấy lừa dối tôi, thì điều này cũng không có nghĩa là anh ấy
không yêu tôi, phải vậy không?”. Đây có thể được xem như là một sự đón nhận ý
kiến của người khác như là ý kiến của chính mình và đang cố gắng để duy trì sự
suy nghĩ độc lập (independent thinking). Trong mối quan hệ ấy, những người như
Amy tìm kiếm sự chấp nhận, sự đồng thuận và sự gần gũi về tình cảm, việc này dẫn
đến sự hoà lẫn (fusion) hoặc một mối quan hệ mắc mứu (enmeshed relationships) (Bowen,
1976).
Khi bạn trai của Amy muốn rời
xa bà, Amy thể hiện phản ứng cảm xúc là khóc. Thay vì cho người tình có không
gian riêng, bà lại gọi điện cho ông ta và khóc. Trong lúc thể hiện sự phụ thuộc
tình cảm vào người bạn tình, Amy tiếp tục phản ứng một cách cảm tính, điều có
thể minh hoạ cho một người có mức độ cá biệt hoá bản thân yếu kém.
Khi xem xét sự lưu chuyển những
mô hình quan hệ từ các thế hệ trước sang các hệ sau, cũng có một thực tế rõ nét
trong gia tộc của Amy. Chủ đề lừa dối cũng khởi đầu trong thế hệ cha mẹ, tự nó
phóng chiếu trên những mối quan hệ trong tương lai ở thế hệ con cái. Sự lập lại chủ đề lừa dối trong gia đình cũng hỗ trợ cho ý tưởng về một quá trình
truyền lan đa thế hệ.
CAN
THIỆP
Bowen (1976) cho rằng sức khoẻ
về mặt cảm xúc ở một người không thể bị tách biệt với gia đình. Sử dụng sự hiểu
biết này trong lý thuyết hệ thống gia đình, Amy và gia đình bà cũng có thể nhận
được lợi ích khi được làm liệu pháp gia đình chú trọng đến cách tiếp cận hệ thống.
Từ cách nhìn này, điều thậm chí còn quan trọng hơn đó là cần bao gồm nhiều
thành viên trong gia đình để làm gia tăng mức độ cá biệt hoá bản thân, trong
khi Amy thì chỉ tham gia vào việc trị liệu cá nhân.
McGoldrick and Carter (2001) nhấn
mạnh vào những kỹ thuật trị liệu gia đình khi làm việc với một cá nhân bằng
cách giải thích về các tương tác trong hệ thống, sự hoà lẫn, sự cá biệt hoá, sự
hợp thành các bộ ba, sự tạo khoảng cách và đoạn giao như là những lĩnh vực cần được
can thiệp. Các tác giả ấy đề cập đến sự giải trừ quan hệ bộ ba
(detriangulation), việc mở thông một hệ thống đóng kín (opening up a
close system) và đảm nhận những “vị trí Tôi” (I positions) là những kỹ thuật hiệu
quả nhất trong khi sử dụng liệu pháp này.
Lý thuyết hệ thống gia đình
khuyến khích việc sử dụng một biểu đồ gia tộc gồm nhiều thế hệ (multigenerational
genogram) để thu thập thông tin về lịch sử gia đình (McGoldrick and Carter,
2001). Nhận dạng những mô hình quan hệ trong các thế hệ trước đó sẽ giúp ích
cho Amy có được một sự thấu hiểu (gain insight). Vì bà đã không nhận ra sự chuyển
lưu những mô hình này (chẳng hạn các chủ đề đoạn giao và lừa dối) đã được chuyển
từ thế hệ này sang thế hệ khác, sẽ rất có giá trị khi giúp cho Amy có thể nhìn
thấy được những mô hình quan hệ trong gia đình của mình.
Còn về sự “giải trừ bộ ba” (de-triangulation),
Amy nói rằng mình đã có cơ hội để lập lại mối quan hệ cá nhân với cha ngay sau
khi bà sinh con. Sau khi bà nhìn thấy mối quan hệ giữa cha mình với đứa con
trai của mình, bà bắt đầu nhìn cha mình với ánh mắt khác với trước đây. Bà nhận ra rằng
trước đó bà đã bị mẹ “tẩy não” bà về cha, khiến bà đã ghét ông mà không hiểu
lý do là gì. Trước khi cha của Amy qua đời, bà đã cải thiện mối quan hệ với ông
trong những năm tháng đó. Trong tình huống này, không việc gì có thể làm để “giải
trừ bộ ba”. Từ sau khi cha qua đời, bà vẫn biểu hiện một sự nhạy cảm về chủ đề
này. Tuy nhiên, trong khi trị liệu, các chủ đề về hợp thành bộ ba, việc Amy đã
bị ghép vào bộ ba và tác động của nó như thế nào với cuộc sống của Amy, khi được
nói ra cũng giúp ích cho bà rất nhiều.
Bowen (1976) cho rằng những sự
đoạn giao xảy ra trong gia đình ở những thế hệ trước sẽ dẫn đến những rối loạn
chức năng trong gia đình. Vì lý do này, việc tái lập lại các quan hệ đã bị gián đoạn (Nguyên văn: “re-opening the emotional cutoffs) và thực hiện việc tái kết nối
giữa các thành viên gia đình là việc hết sức quan trọng để Amy có thể hoá giải
những xung đột tình cảm. Vì Amy chưa từng có xung đột với các anh chị em của mẹ
nên việc tiếp xúc với các anh chị em họ và nối lại các quan hệ đó cũng có lợi
cho sự cá biệt hoá bản thân của bà. Ngay cả khi Amy không làm gì để kết nối với
những người bà con bên ngoại, thì ý nghĩ về điều đó cũng giúp bà thấy thoải
mái hơn.
BÀN
LUẬN VÀ KẾT LUẬN
Sau cùng, bằng cách củng cố, đảm
nhận “vị trí Tôi” (I position) và duy trì sự suy nghĩ độc lập, tình trạng hoà lẫn
trong các mối quan hệ của Amy cũng đã được ngăn ngừa. Trong trị liệu, công việc
chính tập trung vào việc giúp “cá biệt hoá” (differentiating) những cảm nhận của
Amy về ý kiến của người bạn tình. Lúc khởi đầu, Amy có khuynh hướng nói quá nhiều
về người tình của bà. Khi bà nêu ý kiến của mình về những gì người tình nói về
bà, nhà trị liệu hỏi bà: “Đây là những gì ông ta nghĩ, còn bà thì nghĩ thế nào?” Việc
này giúp cho Amy bắt đầu suy nghĩ một cách độc lập. Giờ đây, Amy đã dành thời
gian hơn cho những ý kiến của chính mình và nói về bản thân bà trong khi trị liệu.
Kết quả là phương pháp trị liệu
này đã giúp cho sự cá biệt hoá bản thân của Amy, khả năng tự quyết
(empowerment) của bà và phòng tránh việc chuyển lưu những mô hình quan hệ cũ
sang cho những thế hệ tương lai. Bài viết này tuy chỉ tập trung nói về lý thuyết
của Bowen nhưng những lợi ích từ việc xem xét các khía cạnh khác và áp dụng những
kỹ thuật khác cũng có thể đóng góp thêm vào kết quả của việc trị liệu.
Sự trình bày lại 8
khái niệm “đan xen nhau” đề cập trong lý thuyết Bowen có thể thay đổi tuỳ từng
bài viết, nhưng nội dung cốt lõi vẫn không khác, đó là:
1. Sự hợp thành bộ
ba
2. Cá biệt hoá bản
thân
3. Tiến trình cảm
xúc trong gia đình hạt nhân
4. Tiến trình
phóng chiếu trong gia đình
5. Tiến trình
truyền lan đa thế hệ
6. Sự đoạn giao về
tình cảm
7. Vị trí trong
các anh chị em
8. Tiến trình cảm
xúc về mặt xã hội
Chú thích của TN
Online
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét