ĐIỀU KHIỂN HỌC VÀ TRỊ LIỆU HỆ
THỐNG
BS
NGUYỄN MINH TIẾN Tổng hợp từ nhiều nguồn
(*) Điều khiển học (cybernetics)
là khoa học về việc điều khiển, thu thập, truyền và xử lý thông tin, thường liên
quan đến cơ chế phản hồi trong các cơ thể sống, trong máy móc, các tổ chức và
các hình thức kết hợp của chúng (Ví dụ hệ thống kỹ thuật xã hội, các máy móc do
máy tính điểu khiển, chẳng hạn robot). Từ khoảng thập niên 1940, điều khiển học
hiện đại bắt đầu với vai trò một ngành nghiên cứu kết hợp giữa các lĩnh vực hệ
thống điều khiển, thần kinh học, lý thuyết mạng điện, và mô hình logic. Norbert
Wiener đặt ra thuật ngữ "cybernetics" để chỉ ngành nghiên cứu các
"cơ chế có mục đích" (teleological mechanisms) và thuật ngữ này được
phổ biến bởi cuốn sách của ông với tựa đề Cybernetics,
or control and communication in the animal and machine (Điều khiển học, hay
Sự Kiểm soát và Giao tiếp trong Động vật và Máy móc", 1948). Wiener được xem
như cha đẻ của điều khiển học.
ĐIỀU
KHIỂN HỌC BẬC MỘT VÀ ĐIỀU KHIỂN HỌC BẬC HAI
Theo nhãn quan tâm lý học sinh thái (ecosystemic
psychology), sự so sánh nhận thức luận (epistemology) giữa hai cách tiếp cận điều
khiển học bậc một và bậc hai (first-order and second-order cybernetics) khi vận dụng vào trị liệu hệ thống được dựa
trên những câu hỏi như sau:
1, Thực tại được xem xét như thế nào giữa hai
cách tiếp cận
2, Những hệ thống chẩn đoán/đánh giá khác
nhau thế nào giữa hai cách tiếp cận
3, Việc trị liệu ở mỗi cách tiếp cận chuyên
biệt khác nhau như thế nào
4, Những kỹ năng nào được cần đến trong mỗi
cách tiếp cận
5, Vai trò và chức năng của nhà trị liệu
trong mỗi cách tiếp cận
6, Việc nghiên cứu sẽ như thế nào từ quan điểm
chuyên biệt của mỗi ca1chh tiếp cận
7, Những quan ngại về mặt đạo đức ở mỗi cách
tiếp cận
… Cùng nhiều câu hỏi đặt ra khác
Lý thuyết hệ thống tổng quát hoặc điều khiển
học (General Systems Theory or cybernetics) đã được biết đến ở Châu Âu từ lâu,
có thể được chia thành hai mô hình: (1) Điều khiển học đơn giản hoặc điều khiển
học bậc một; và (2) điều khiển học của điều khiển học hay điều khiển học bậc
hai.
Không có sự định nghĩa tách bạch rõ ràng giữa
hai thuật ngữ trong tư liệu khiến gây ra nhiều sự nhầm lẫn và không đồng thuận,
vẫn thường thấy mỗi khi xuất hiện một mô thức mới. Nhận thức luận mới về điều
khiển học này dựa trên các công trình tác phẩm của Gregory Bateson (Searight
& Openlander, 1987, p.52).
Gregory Bateson đã giới thiệu một khái niệm
có tính liên ngành về điều khiển học dành cho các ngành khoa học xã hội và áp dụng
nó vào trong lĩnh vực trị liệu hệ thống gia đình (Becvar & Becvar, 2000).
Bateson mô tả điều khiển học như là “một cơ chế tuần hoàn nhờ đó các hệ thống có
thể tự điều hoà chính nó nhờ vào các thông tin phản hồi đến chính hệ thống đó”
(the circular mechanism through which systems regulated themselves by feeding
back information to the system) (Vorster, 2003, p.52). Ông đã xem điều khiển học
như một ẩn dụ thích hợp mang lại ý nghĩa cho sự quan tâm cả đời của ông về chủ
đề nhận thức luận. Bateson nói rằng “nếu bạn muốn hiểu về một hiện tượng hoặc một
biểu hiện nào đó, bạn cần phải xem xét hiện tượng đó trong chính bối cảnh bao gồm
tất cả toàn bộ những vòng mạch nối tiếp tương thích với nó” (if you want to
understand some phenomenon or appearance, you must consider that phenomenon
within the context of all completed circuits which are relevant to it) (1971,
p.244).
THỰC
TẠI ĐƯỢC NHÌN THẤY NHƯ THẾ NÀO Ở MỖI CÁCH TIẾP CẬN?
Trước khi bàn đến những sự giống nhau và khác
nhau giữa hai cách tiếp cận để xem xét thực tại này, chúng ta sẽ bắt đầu bằng
việc định nghĩa thế nào là “thực tại” (reality). Theo Tự điển Reader’s Digest
Universal dictionary (1987; 1278), thực tại là những gì tồn tại một cách khách
quan và có thật (reality is that which exists objectively and in fact). Trong
triết học, đó là tất cả những gì có thật,
tuyệt đối và không thay đổi (the sum of all that is real, absolute, and
unchangeable). Nói cách khác, đó là những gì xảy ra trong đời sống thực và có
thể so sánh được bởi những dữ kiện/dữ liệu (facts), theo Baron (2012). Những định
nghĩa này nêu ra ý tưởng rằng thực tại là những gì mà bất cứ ai cũng có thể nhận
ra ở bất cứ thời điểm nào như là những điều hiện thực và có thật (actuality or
fact) dưới một thể loại nào đó. Tuy nhiên, có một cách nhìn khác về thực tại,
theo Baron (2012), đó là nhìn thấy nó như là “tất cả những gì tạo nên phần
trung tâm của một cá nhân có thể nhận biết là có thật” (to see it as all those
things that form central part of what an individual perceives to be real). Rồi
thì sự “khách quan mang tính cá nhân” này (sự chủ quan) lại thay thế cho ý niệm
khách quan về thực tại – vì sự nhận thức và niềm tin thì có liên quan đến mỗi
cá nhân. Chính từ những cách tiếp cận như thế, chúng ta đã có những cái nhìn đối
lập nhau về thực tại. Theo Baron (2012), nhìn từ nhãn quan của điều khiển học bậc
một (first order cybernetic perspective) người ta có thể đặt câu hỏi “cái gì thực
sự là thực tại”. Câu hỏi này không tương đồng với các tiếp cận (điều khiển học)
bậc hai, trong đó câu hỏi này nêu ra ý tưởng rằng có một kiến tạo hoặc một giá
trị duy nhất về thực tại – một “chân lý” để có thể được khám phá, có thể được
tiếp nhận và có thể sử dụng nó như một ví dụ được đặt lên cao cho nhiều người
có thể cùng xem xét. Ý tưởng về một chân lý hữu
hạn (finite truth) và sự tồn tại của một thế giới thực có thể nhận biết
một cách khách quan chắc chắn thì trái ngược với nhãn quan của điều khiển học bậc
hai. Trái lại, theo Baron (2012), nhãn quan điều khiển học bậc hai gây thách thức
cho cách mà chúng ta giả định về sự nhận biết thực tại. Nhận biết là một quá
trình kiến tạo, nghĩa là: chúng ta phát minh ra một môi trường qua đó chúng ta
tìm thấy chính mình như đang nhận biết hoặc kiến tạo nên nó (we invent the
environment in which we find our self as we perceive/construct it). Mỗi người
được xem là có khả năng tạo lập nên một thứ thực tại cho riêng mình và vì thế
thực tại của người này thì khác với thực tại của người kia dựa trên một tập hợp
rất độc đáo của mỗi bên về trải nghiệm sống, về các yếu tố di truyền và vì thế
cả về sự nhận thức. Đối với mỗi người, thực tại là vừa có tính chắc chắn, vừa
phải đúng đối với cá nhân mình. Thật vậy, con người sống trong một “đa vũ trụ”
(Multiverse – Trái với cách hiểu vũ trụ như là chỉ có một - Universe), với rất
nhiều thực tại có thực, ngang bằng nhau giữa những cách nhìn tuỳ theo từng người
quan sát và không có chỗ cho tính khách quan, và bởi thế cũng không có chỗ cho ngay
cả tính chủ quan.
Theo cách tiếp cận điều khiển học bậc một (điều
khiển học đơn giản), thực tại được xem xét khi chúng ta đặt góc nhìn vào vị trí
của một “người quan sát từ bên ngoài” để nhìn thấy những gì đang xảy ra bên
trong một hệ thống (Becvar, 2009). Ẩn dụ để mô tả cho tiến trình này đó là một “chiếc
hộp đen” (black box), “nó mô tả về một hệ thống mà chúng ta chỉ quan sát được sự
vận hành của nó nhờ vào việc cố gắng quan sát những gì đi vào và những gì đi ra
từ hệ thống đó” (Becvar, 2009, tr.66). Vì thế trong điều khiển học bậc một,
chúng ta (người quan sát) không xem bản thân mình là một phần của hệ thống và
chúng ta không bận tâm đến việc tại sao hệ thống đó lại vận hành như thế, mà tập
trung vào việc mô tả những gì đang diễn ra. Ý nghĩa chính của cách tiếp cận điều
khiển học bậc một đó là xem thực tại như là “ở bên ngoài” người quan sát.
Điều khiển học bậc một cho rằng hệ thống được
quan sát thì tách biệt với người quan sát. Người quan sát có thể quan sát một hệ
thống một cách khách quan từ bên ngoài và có thể ảnh hưởng lên hệ thống mà
không đi vào bên trong nó (Goldenberg & Goldenberg, 2004). Theo tiếp cận điều
khiển học bậc một, có một thực tại khách quan và những ý kiến khác nhau của
chúng ta về cùng hệ thống ấy, điều này chỉ là do chúng ta có những cách diễn giải
khác nhau về cùng một thực tại (Becvar & Becvar, 2009). Chúng ta đồng thuận
với nhau về một thực tại để khớp nối với nhau để cùng sử dụng một loại ngôn ngữ
chung.
Bình diện đồng thuận theo cách tiếp cận bậc một
là những hệ thống mà chúng ta nghiên cứu và điều khiển học bậc hai là cho những
hệ thống mà chúng ta thuộc vào (hoặc chúng ta quan sát chính chúng ta).
Mỗi người đều tạo ra một cách sống khác biệt và
sống với cách ấy. Cách thức sống ấy là sự kết hợp độc đáo những yếu tố di truyền,
trải nghiệm và nhận thức của mỗi người. Vì thế mỗi người tạo nên một thứ thực tại
khác biệt riêng cho mình (Becvar, 2009, tr.84). Cách tiếp cận điều khiển học bậc
hai nhắc nhở chúng ta rằng các vấn đề và những giải pháp chỉ là những khuôn khổ
có tính tương đối. Khi nhúng một que đũa vào trong nước, tay sờ vẫn thấy nó thẳng,
nhưng mắt nhìn thì thấy đũa có vẻ bị cong gập lại, và sự thật thì đũa không thể
vừa thẳng lại vừa cong gập lại. Trong khi thực tại có thể chứa đựng những điều
đối nghịch nhau, thực tại vẫn có tính đồng nhất liền lạc (Becvar, 2009,
tr.350). Trong một tình huống như thế, rất cần phải nhìn ra những khác biệt và
xem xét đến những gì là mâu thuẫn trong tình huống đó. “Chúng ta phải phân biệt
dữ liệu nào là có ý nghĩa và dữ liệu nào là đã bị hiểu sai” (Becvar, 2009,
tr.350). Điều khiển học bậc hai, ngược lại, đã không cho rằng có một thực tại
theo kiểu như thế.
Điều khiển học bậc hai, còn được gọi là “điều
khiển học của điều khiển học” (the cybernetics of cybernetics), là cách ứng dụng
đệ quy của điều khiển học vào chính nó và thực hành điều khiển học theo một cách
phê phán như thế. Nó được phát triển từ khoảng thời gian 1968-1975 bởi Margaret
Mead, Heinz von Foerster và một số tác giả khác. Von Foerster gọi nó là điều
khiển học của "hệ thống đang quan sát" (observing systems) trong khi
điều khiển học bậc một là điều khiển học của "hệ thống được quan sát"
(observed systems). Đôi khi nó còn được gọi là "điều khiển học mới" (new
cybernetics), thuật ngữ được Gordon Pask ưa thích và có mối liên quan chặt chẽ
với học thuyết kiến tạo cấp tiến (radical constructivism) được phát triển cùng
thời bởi Ernst von Glasersfeld. Mặc dù đôi khi nó được coi là một sự phá vỡ triệt
để những mối quan tâm trước đó của điều khiển học, nhưng vẫn có một sự liên tục
với những công trình trước đó và cũng có thể xem nó là một sự hoàn tất cho chuyên
ngành này, đáp ứng lại với các vấn đề được nêu rõ trong Hội nghị Macy, nơi mà điều
khiển học bắt đầu được khai triển. Các mối quan tâm của điều khiển học bậc hai
bao gồm nhận thức luận (epistemology), đạo đức (ethics), tính tự chủ (autonomy),
khả năng tự nhất quán (self-consistency), khả năng tự tham chiếu (self-referentiality)
và khả năng tự tổ chức (self-organizing capabilities) của các hệ thống phức tạp.
Điều khiển học bậc hai được đặc trưng như là điều khiển học khi mà "tính
tuần hoàn được xem xét một cách nghiêm túc".
Theo cách tiếp cận điều khiển học bậc hai, không có một hệ thống nào có tính khách quan tuyệt đối. Đối với mỗi người, vẫn có cho mình một hệ thống riêng biệt, và vẫn tuyệt đối xác đáng (Becvar & Becvar, 2009. Vậy làm thế nào mà chủ đề sự lành mạnh và bệnh lý được xem xét đến qua hai cách thức tiếp cận?
ĐIỀU
KHIỂN HỌC VÀ LIỆU PHÁP HỆ THỐNG GIA ĐÌNH
Liên quan đến những nhà tâm lý trị liệu hệ thống,
từ lập trường nhận thức luận của điều khiển học bậc một, người ta có thể khám
phá thực tại thông qua quá trình quan sát mà không bị ảnh hưởng bởi chính quá
trình quan sát này. Nhà trị liệu vì thế có thể khám phá và xử lý các vấn đề từ
một vị thế từ bên ngoài (hệ thống) để khởi động sự thay đổi, theo Baron (2012).
Trong khi đó, điều khiển học bậc hai xem “người quan sát cũng là một phần của những
điều được quan sát” (the observer as part of the observed). Baron (2012) cho rằng
những nhà trị liệu theo cách tiếp cận điều khiển học bậc hai sẽ làm việc với những
nhận thức và kiến tạo từ cả hai phía, từ thân chủ và của cả chính họ. Kết quả
là, thực tại là những điều mà chẳng bao giờ có thể được hiểu bởi một người khác
theo nghĩa như một chân lý tuyệt đối. Cách quan sát của nhà trị liệu sẽ ảnh hưởng
lên những gì mà nhà trị liệu nhìn thấy và công nhận khiến cho có nhiều kiểu nhận
thức khác nhau, tuy vẫn ngang bằng về tính hợp lệ, đối với cùng một hiện tượng
(there are many alternative, yet equally valid perceptions of the same
phenomenon).
Về chủ đề tâm bệnh, cũng theo Baron (2012),
điều khiển học bậc một dựa trên ý tưởng rằng bệnh lý được định nghĩa dựa trên sự
tham chiếu với những gì là bình thường, giống như trong liệu pháp gia đình
theo tiếp cận cấu trúc (structural family therapy approach). Ở đây cần phải có
một “khuôn mẫu về sự bình thường” để đối lập với những gì được xem là lệch lạc.
Việc này có được qua những cuộc phỏng vấn những gia đình có sự vận hành chức
năng “hiệu quả” từ nhiều nền văn hoá khác nhau. Từ những nhận định ấy người ta “suy
luận ra” có một khái niệm về thế nào là lành mạnh và thế nào là không lành mạnh.
Cái gì là đúng và cái gì là không đúng. Hơn nữa, việc một ai đó được xem là “có
bệnh” cũng đưa đến việc có thể sửa chữa được cho người đó.
Health Barsky (1988), khi liên hệ đến “hội chứng
tốt đẹp không tưởng” (utopian syndrome) về mặt sức khoẻ thể lý, nêu rằng chúng
ta tạo ra các vấn đề bằng cách tạo nên những tiêu chuẩn phi thực tế. Ông đã lưu
ý rằng cá nhân khi đó có thể cảm nhận sức khoẻ của mình đang giảm sút (Becvar,
2009). Và “khi tự mình săm soi kỹ hơn thì càng làm gia tăng thêm sự khó chịu và
sự mất chức năng mà kết quả sẽ dẫn đến việc đánh giá tiêu cực hơn về sức khoẻ của
mình” (Barsky, 1988).
Barsky (1988, tr.416) cho rằng thật khó có thể
tin vào tình trạng sức khoẻ của một người khi những cảm giác và những sự mất chức
năng ở người đó đã được phác hoạ một cách đáng lo ngại về một bệnh lý nào đó
khó nhận ra và khó được chẩn đoán. Giống như trong trường hợp các nốt ruồi, các
nếp nhăn cần phải làm phẫu thuật đề ngừa diễn tiến thành ác tính. Các quan sát
của Barsky dường như phù hợp với những nỗ lực phòng ngừa các vấn đề về sức khoẻ tâm
thần, các vấn đề về đời sống lứa đôi và gia đình. Và đó là phần việc của cách
tiếp cận điều khiển học bậc một.
Trong trị liệu gia đình, để định nghĩa về bệnh
lý, chúng ta hẳn phải có một định nghĩa về “bình thường”, vì thế nó cũng kéo
theo một thực tế rằng thế nào là bình thường. Bệnh lý vì thế chỉ tồn tại như một
sự thật chủ quan. Điều được xem là bình thường ở người này có thể được xem là bệnh
lý ở một người khác. Điều khiển học bậc một, trái lại, cho phép có sự chẩn đoán
về bệnh lý như là một thực tại khách quan mà người ta chỉ có những nhận biết
khác nhau về nó.
Theo cách tiếp cận điều khiển học bậc hai,
không có những vấn đề (problem) chung mang tính phổ quát, nó chỉ là những tổng
thể các sự việc gắn kết lại mang tính liền lạc và có ý nghĩa đối với đa số người.
Các vấn đề mà chúng ta xử lý chỉ là vấn đề khi xét nó trong một hệ tham chiếu
nào đó là “bệnh lý" (Becvar, 2009, tr.349). Một hệ thống lành mạnh sẽ sử dụng
nguồn năng lượng sẵn có theo một cách thức mạch lạc và phân phối nguồn năng lượng
ấy một cách hiệu quả, trong khi một hệ thống kém lành mạnh lại đầu tư quá nhiều
năng lượng vào một khía cạnh nào đó và hy sinh những khía cạnh khác (Becvar
& Becvar, 2006). Thêm vào đó, ý tưởng về thế nào là lành mạnh hay không
lành mạnh còn tuỳ thuộc vào cách mà gia đình tự xem xét chính họ.
Theo Becvar & Becvar (2006), mối quan tâm
chính của nhà trị liệu là làm thế nào để gia đình vận hành tốt nhất theo những
gì họ muốn thay vì là với những gì mà họ đang làm. Sự lành mạnh được định nghĩa
là sự thành công của gia đình trong việc đạt đến những mục đích của chính họ
(Becvar & Becvar, 2006). Những mục đích này và cấu trúc này được định nghĩa
bởi chính gia đình chứ không phải bởi nhà trị liệu. Becvar (2006) nêu ra rằng một
gia đình hạnh phúc là những gia đình có những chuyện tốt lành đang diễn ra, họ
đầu tư thời gian và năng lượng cho những tiến trình tích cực. Những tiến trình
tích cực là những việc có thể mang lại những tác động hồi sinh - khác với những
tiến trình tiêu cực thì có tác động gây kiệt quệ hệ thống - và đó chính là sự
lành mạnh (Becvar & Becvar, 2006).
Tóm lại, ở bình diện điều khiển học bậc một,
chúng ta có thể quan sát một hệ thống và quyết định hệ thống ấy là lành mạnh đến
đâu và bệnh lý như thế nào. Trong điều khiển học bậc hai, không có định nghĩa
nào được chấp nhận về hệ thống là “tốt” hay “xấu”. Một hệ thống đáp ứng lại với
những xáo trộn khác nhau theo một cách thức tương thích với cấu trúc của nó, vì
thế, tất cả các hệ thống đều vận hành theo cách của nó và không thể được xem là
“bệnh lý” TRỪ KHI chúng ta gọi tên nó như thế (Becvar & Becvar, 2006).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét