“Why does psychotherapy need
postmodernism?”
Tác giả: BOGDAN DE BARBARO, Đại học Y khoa Jagiellonian, Cracow, Ba Lan
Nguồn: Archives of Psychiatry and
Psychotherapy, 2008; 3:43–50
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN và nhóm dịch
thuật Trăng Non
Xem lại Phần 1
Phần 2
Hình 1. Nếu nhà trị liệu
vẫn để tâm trí rộng mở, không có bất cứ thành kiến nào về “bức bản đồ” (hoặc
“văn bản”) của thân chủ đang tìm đến để được giúp đỡ, nhà trị liệu sẽ nhận được
sự miêu tả có tính chất “nguyên vẹn” và “thanh khiết”, không bị ảnh hưởng bởi chính lý thuyết của
mình (những mũi tên vẫn còn trong sáng)
Bên trái: “Bản đồ” của bệnh nhân, thân chủ, gia đình…
Bên phải: “Bản đồ” của nhà trị liệu (chẩn đoán)
Hình 2. Tuy nhiên, nếu
học thuyết của nhà trị liệu tạo nên một khuôn mẫu nhận thức rõ ràng, việc này sẽ
ảnh hưởng đến các thông tin mà nhà trị liệu nhận được từ thân chủ (các mũi tên
bị sẫm màu một phần)
Học thuyết được mở rộng của nhà trị liệu
Hình 3. Khi học thuyết
càng được mở rộng (tấm “màn lọc lý thuyết” càng dày hơn), hình ảnh về thân chủ
sẽ càng bị bóp méo bởi học thuyết ấy (những mũi tên đậm lên một cách rõ rệt)
Học thuyết được nhà trị liệu khai triển một cách đáng kể
Hình 4. Khi học thuyết
được nhà trị liệu triển khai một cách đáng kể, việc đó sẽ tạo nên một tấm màn
che phủ lên hình ảnh của thân chủ đang tìm kiếm sự giúp đỡ, đến một mức độ khi nhà
trị liệu nếu cứ “ở trong học thuyết của mình” thì sẽ không thể nhìn thấy được
hình ảnh có thật về thân chủ.
Hình 5. Bức “bản đồ” về
thân chủ (bệnh nhân, gia đình…), đó là sự nhận thức một cách chủ quan về thực tại
(dưới dạng những hình ảnh, mô tả…)
Hình 6. Sự phản ảnh từ
nhà trị liệu, chuyên viên tư vấn và các thành viên trong nhóm phản ảnh (những dấu
sao * ở trong hình). Ở mỗi thời điểm, những phản ảnh này có thể ở xa hay ở gần
so với những nhận thức của gia đình. Theo nguyên tắc có sự đa dạng về phiên bản,
chúng rất khác nhau, đặc biệt là không gắn kết hoặc nhất trí với nhau lắm. Đối
với “chủ nhân của bức bản đồ”, những phản ảnh được xem là hữu ích nhất sẽ là những
phản ảnh ở gần với bức “bản đồ” của người ấy và tạo nên một “trường khác biệt tối
ưu” (field of optimal difference).
Hình 7. Những đường
biên giới mới của bức “bản đồ” (về nhận thức). Bản đồ nay đã được mở rộng (nói
theo cách của Michael White là "từ mỏng trở nên dày hơn")
NHỮNG TIỀN ĐỀ KHÁC CỦA XU HƯỚNG HẬU HIỆN ĐẠI HIỆN DIỆN TRONG TÂM LÝ TRỊ
LIỆU
Không thể nào bàn luận một cách chi tiết hết tất cả những ứng
dụng của tư duy hậu hiện đại vào tâm lý trị liệu. Tuy nhiên, trong số những chủ
đề xuất hiện trong các tài liệu nói về xu hướng hậu hiện đại, những ví dụ sau
đây đáng được đề cập đến:
Những câu chuyện kể (narratives)
Phạm trù này đã từng được đề cập đến. Từ “chuyện kể” là điểm
then chốt của chủ thuyết hậu hiện đại và nó cũng làm sáng tỏ phương pháp làm việc
của các nhà trị liệu. Từ sách Sáng Thế Ký
cho đến những sản phẩm của Hollywood đều là những câu chuyện mà chúng ta suy nghĩ
về thế giới. Các nhà trị liệu hậu hiện đại tập trung rất nhiều vào thực tế đó,
bởi vì đúng là việc tường thuật câu chuyện có thể “áp chế” trở lại đối với
tác giả của nó, trị liệu có thể giải thoát bệnh nhân của sự áp chế này và làm
cho họ có thể sống theo những ý định của riêng mình. Không có nghĩa là (như tôi
đã chỉ ra trước đó) nhà trị liệu có một quyền năng nào đó để cho rằng sự diễn
giải của mình, các tư duy kiến tạo của mình về thực tại là tốt hơn hoặc “đúng
hơn” của bệnh nhân hay của gia đình bệnh nhân. Tuy nhiên, nhà trị liệu có thể tạo
ra sự phản ảnh ở mức độ nhất định lên câu chuyện của bệnh nhân, thông qua thay
đổi hệ quy chiếu, và, kết quả là, thay đổi ý nghĩa của câu chuyện và làm bật
lên những “ẩn ý” bị cho là không quan trọng. Kết quả của sự bình giải một câu
chuyện gây bế tắc là tác giả/bệnh nhân có thể tìm kiếm một câu chuyện mới giúp
họ vượt qua bế tắc này. Trong bối cảnh này, liệu pháp sử dụng câu chuyện kể (narrative therapy) tự nó đã có tính hậu
hiện đại, xét trên khía cạnh nó nhấn mạnh ngôn ngữ như là tác nhân tạo nên thực
tại.
Vấn đề về quyền lực
Từ nhãn quan lịch sử, Michael Foucault đã phân tích những hiện
tượng như là sự điên rồ và bản năng tình dục và mô tả mối quan hệ giữa quyền lực
và kiến thức. Những kiểu mẫu giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ trong gia
đình đều có liên quan đến quyền lực. Giống như trong thời tiền hiện đại, kiến
thức được quy kết với tuổi tác (câu tục ngữ “sự thông thái của người cao tuổi”),
trong thời hậu hiện đại, thế hệ trẻ được đánh giá cao hơn, vì họ học hỏi tốt
hơn từ những thành tựu của cách mạng công nghệ - kỹ thuật số. Hậu quả là, sự
căng thẳng giữa những người có quyền lực thực sự và người có “quyền lực về mặt
ngôn ngữ” là không tránh khỏi. Đây là một trong những cách lý giải cho khủng hoảng
vốn có trong các gia đình hiện đại.
Vấn đề về sự loại trừ (exclusion)
Quan điểm bảo vệ nữ quyền, bắt rễ sâu xa từ xu hướng hậu hiện
đại, đã chỉ ra ảo tưởng về sự tồn tại của những “lý thuyết khách quan”. Có
nhiều lý thuyết, mà rất nhiều câu chuyện vốn được cho là có tính phổ quát ấy lại
không thường được chấp nhận, bởi vì chúng được viết ra từ một quan điểm có động
cơ chính trị (các nhà phê bình theo chủ nghĩa bảo vệ nữ quyền cho rằng quan điểm
này là của nam giới và đã gạt những điều liên quan đến nữ giới ra ngoài). Việc
lưu ý đến quan điểm của những người bị loại trừ dường như đã gây ra sự cảm hứng
khác thường giúp vượt qua được vấn đề
liên quan đến định kiến về tính ưu việt của nam giới và đặc tính phụ quyền về mặt
kiến thức, mà từ đó dẫn đến việc nắm giữ quyền lực của nam giới. Ở rất nhiều
nơi và tại nhiều thời điểm khác nhau, những người bị loại trừ không chỉ là phụ
nữ mà còn là những người, mà theo ngôn ngữ y khoa, đang được điều trị như bệnh nhân
tâm thần, người già, những cộng đồng thiểu số về chủng tộc, tôn giáo hay xu hướng
tình dục. Tính nhạy cảm trong xu hướng hậu hiện đại đã giúp nhận ra sự cần thiết
phải hoài nghi những lý thuyết đang thịnh hành và xác định xem chúng đang đại
diện cho lợi ích của ai (của nam giới? của tầng lớp trung lưu? hay của người da
trắng?). Tinh thần cởi mở đón nhận những lý thuyết khác là một trong những tiền
đề trung tâm của xu hướng hậu hiện đại, một thứ đạo lý hướng đến từng cá nhân.
NHỮNG PHÊ BÌNH DÀNH CHO XU HƯỚNG HẬU HIỆN ĐẠI
Hậu hiện đại không phải là một quan điểm được chia sẻ một
cách phổ biến. Những lý lẽ chống lại chủ nghĩa hậu hiện đại có thể được tóm tắt
trong ba điểm:
*Những người theo chủ nghĩa
hậu hiện đại bác bỏ những thành tựu của khoa học hiện đại, tự đặt họ ra khỏi lĩnh
vực khoa học. Đối với ý kiến chỉ trích
này, những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại thường hồi đáp rằng họ không bác bỏ
những thành tựu của khoa học tự nhiên và công nghệ kỹ thuật (đúng là họ sử dụng
máy tính để viết những luận án và nếu không có công nghệ thì không có máy
tính), nhưng họ chú ý đến phương pháp tiếp cận mang tính tự phụ và những ảnh hưởng
tiêu cực của cách thức diễn ngôn mang tính hàn lâm. Safran và Messer, những
người ủng hộ chủ nghĩa hậu hiện đại, kết luận, tính đa nguyên vận hành hơi giống
với một phương thuốc trong y khoa: nếu được sử dụng đúng liều, nó sẽ giải độc một
cách hiệu quả cho sự áp chế của chủ nghĩa duy lý nhưng nếu dùng quá liều sẽ dẫn
đến tính tương đối. Một đại diện hàng đầu của chủ nghĩa hậu hiện đại, Kenneth
Gergen, cho rằng sự hoài nghi có tính lập trình của xu hướng hậu hiện đại
cũng được áp dụng cho chính xu hướng hậu hiện đại.
*Những lý lẽ liên quan đến
đạo đức dường như là những ý kiến chủ đạo chống lại chủ nghĩa hậu hiện đại, và
mối quan tâm chủ đạo là tính tương đối và sự hư vô về luân lý. Nếu chúng ta cho phép tính tương đối – và thực sự là khi
càng có nhiều người tham gia diễn ngôn thì càng có nhiều phiên bản – chúng ta sẽ
trở nên khoan dung với tất cả, bao gồm cả những điều xấu. Lẽ nào mà tình cờ một
khẩu hiệu hậu hiện đại nổi tiếng “mọi chuyện đều qua đi” (“everything goes”) lại không dùng biện minh cho tội ác sao? Liệu có phải
một tội ác rõ ràng lại có thể được hợp pháp hóa theo quan điểm nhân văn nói chung
hoặc trong lúc đang trị liệu, khi lập quan hệ với một bệnh nhân hay gia đình
nào đó mà những tình trạng lạm dụng thể chất, tình dục hay văn hóa đang diễn ra?
Những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại cho rằng chủ đề đạo đức không nên dựa
trên các bộ luật và điều luật, mà đầu tiên là phải dựa trên ý thức và trách nhiệm
thường xuyên ở mỗi con người theo quan điểm có tính nhân bản: đó cũng chính là trách
nhiệm của nhà trị liệu đối với bệnh nhân/thân chủ của họ. Nhà trị liệu phải chịu
trách nhiệm đối với những ảnh hưởng mà họ tạo nên. Tuy nhiên, trong vài năm trở
lại đây, ngay cả những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại cũng đã gia tăng nhận
thức rằng thực sự khó mà sống được trong một thế giới nếu không có những chuẩn
mực đạo đức phổ quát.
*Một luận điểm cuối cùng
đáng được đề cập đến là luận điểm dường như thường được xây dựng để tấn công bất
cứ phương pháp tiếp cận mới nào: xu hướng hậu hiện đại thường bị cáo buộc là chẳng
có gì mới mặc dù ra vẻ là độc đáo. Những
người theo chủ nghĩa hậu hiện đại ít lo lắng về luận điểm này nhất, bởi vì họ sẵn
lòng chấp nhận bất cứ những điều gì mới mẻ, khác lạ, ngoại lai, có thể được
trích dẫn hoặc vay mượn. Sự phân chia thế giới thành những mảnh nhỏ (như trong
nghệ thuật cắt dán) là một trong những đặc điểm giúp nhận diện xu hướng hậu hiện
đại. Có rất nhiều câu chuyện hiện diện trong chúng ta mà không phải lúc nào
cũng xác định được nguồn gốc của chúng.
KẾT LUẬN
Nhãn quan hậu hiện đại vẫn còn bị chỉ trích vì nhiều lý do.
Tuy nhiên, dù thích hay không, chúng ta, với tư cách những nhà trị liệu đang dự
phần trong nền văn hóa, vẫn “bị ném vào” trào lưu hậu hiện đại cùng với những bệnh
nhân và thân chủ của chúng ta. Với ý nghĩa ấy, nhiều người trong chúng ta, khi
sử dụng các bối cảnh văn hóa và ngôn ngữ như một phần quan trọng của tiến trình
trị liệu, hẳn sẽ nên nhạy bén hơn với xu hướng hậu hiện đại và nhận biết về những
biểu hiện của xu hướng ấy. Với tư cách là những nhà trị liệu, chúng ta hẳn
nhiên sẽ không xem xét đến chuyện thuyết hậu hiện đại có “đúng” hay không; tuy
nhiên, chúng ta có quyền và có cơ hội tốt để rút ra từ thuyết hậu hiện đại những
gì mà chúng ta xem là hữu ích cho bệnh nhân và thân chủ của chúng ta.
*Vậy tại sao những nhà tâm lý trị liệu lại cần đến chủ thuyết
hậu hiện đại? Tôi nghĩ rằng với tất cả những tính chất khiêu khích, cực đoan, bế
tắc, cùng những nguy cơ nghiêm trọng của sự vô tổ chức về học thuật và phi chuẩn
mực về văn hóa của nó, nhãn quan này vẫn có thể mang đến một thông điệp quan trọng
cho những nhà trị liệu:
*Hãy thận trrọng, và thậm chí là không nên tin tưởng vào những
tư tưởng, những phán xét của chính các bạn và cả những học thuyết mà bạn đang dựa
vào. Đừng nghĩ rằng bạn biết nhiều hơn về những gì mà người khác cần có trong đời
sống của họ.
*Hãy xem xét bối cảnh (quan hệ liên cá nhân, các yếu tố văn
hóa, kinh tế và chính trị). Không xét đến bối cảnh, bạn sẽ không thể tiếp cận đến
những “ý nghĩa” ẩn bên dưới những điều được xem là “sự kiện thực tế”.
*Hãy nhớ rằng ngôn ngữ có vai trò đồng thời tạo nên thực tại.
Đây là lý do giải thích cho điều rất quan trọng là bạn cần nhận biết về những
gì bạn nói, bạn nói những điều đó trong hoàn cảnh như thế nào và những thành kiến
đã bộc lộ ra khi bạn nói sẽ có thể gây nên những hệ quả đối với thân chủ đang cần
đến sự giúp đỡ của bạn.
*Hãy nhận thức rõ về tính phức tạp của những cách thức giải
trình về cuộc sống cùng vô số những câu chuyện kể và đừng tự cho rằng câu chuyện
kể theo cách của bạn mới là đúng hơn, là quan trọng hơn, là thật hơn.
*Hãy tính đến trách nhiệm và luân lý của của chính bạn hơn
là những bộ luật và điều luật.
Đối với một số người, những điều chỉ dẫn này có thể là tầm thường và hiển nhiên, nhưng đối với những người khác, có thể họ sẽ khởi lên những phản bác. Những tính chất mơ hồ này có lẽ là sự phản ảnh lại bản chất của thời đại mà chúng ta đang sống, của tinh thần hậu hiện đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét