Bài gốc: Deuil et Thérapie Familiale: Quels Objets Flottants?
Dịch từ bản tiếng Anh: Mourning and Family Therapy: What Floating Objects?
Tác giả: JEAN-PAUL GAILLARD, YVELINE
REY
Nguồn: Cairn.Info - Liệu pháp Gia đình
3/2001 (Quyển 22), Tr. 251-268
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
"Chúng ta luôn tìm kiếm lời giải thích khi chúng là những đại diện mà chúng ta chỉ có thể
cố gắng mới phát minh ra" - P. Valéry (Bản điều trần số 1, trang 837)
Những đoạn in
nghiêng được lấy từ một văn bản, chưa được xuất bản của Lucien Halin, với sự
cho phép của ông
Giới
thiệu
Có hai con đường giao nhau, cả
hai đều hướng tới nghiên cứu-hành động: Một được phát triển từ các vật thể trôi
nổi (E: floating objects; F: objets flottants) và chính xác là từ “trò chơi ngỗng
hệ thống” (E: systemic goose game; F: du jeu de l’oie systémique). Hướng còn lại
tập trung vào sự phức tạp của quá trình đưa tang và vào các công cụ trị liệu
thích ứng với tình trạng stress cấp tính.
Một cuộc trò chuyện gợi mở được
đặt hẹn. Một mặt, nó đặt ra câu hỏi đạo đức (ethical question) về chính sự hỗ
trợ vào quá trình đưa tang; mặt khác là câu hỏi mang tính kỹ thuật (technical
question) về tính hữu dụng của vật thể nổi trong việc hỗ trợ quá trình đưa tang:
*Người ta có thể thực sự cho rằng
có một sự “tầm thường hóa” (trivialization), thậm chí là bạo lực (violence), khi
tạo ra một khuôn khổ, một sự hỗ trợ, cho các gia đình có sự mất mát người thân,
tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp sự mất mát người thân ở mức nghiêm trọng tương
tự như một rối loạn stress sau sang chấn;
*Những loại vật thể nổi như “trò
chơi ngỗng” và “mặt nạ” (masks) có thể mở ra một không gian khó đoán trước, mà
có thể đóng góp rất nhiều những biểu hiện không lời (Nguyên
văn: “analogical expressions”/expressions analogiques” – Ngụ ý chỉ những biểu
hiện không dùng lời nói, ngược lại với “digital expressions” – ND) và chứa
đầy các lực cảm xúc (emotional forces). Liệu một công cụ rõ ràng chuyên dụng
cho lộ trình phức tạp của sự tiếc thương có bị mất đi những phẩm chất quý giá
này hay không?
Một sự so sánh dựa vào những trải
nghiệm sau đây sẽ cố gắng làm sáng tỏ câu hỏi này.
Từ phòng chờ, gia đình này đang
như ngồi như tạc trợng (F: statufiée). Người cha ngồi tách biệt, khuôn mặt đông cứng,
dáng ngồi ủ rủ, ánh mắt đăm chiêu, dường như đang chìm trong những suy nghĩ đen
tối. Cô con gái (18 tuổi) và cậu con trai (15 tuổi), ngồi cách nhau, mỗi người
cầm một quyển tạp chí, khuôn mặt vô hồn như thể tuổi thơ đã rời xa họ, những
ánh mắt nhìn đăm đăm khiến họ gần như bất động.
Hai phiên làm việc cho chúng
tôi biết, với vô số ngôn từ, về một kịch cảnh: Người phụ nữ, vợ của Maxime và mẹ
của hai đứa trẻ, đã chết trong một vụ tai nạn giao thông, hơn hai năm trước.
Người cha đã điều trị chứng trầm cảm trong một năm và chính vị bác sĩ điều trị,
khi biết được rằng thành tích học tập của hai đứa con bắt đầu giảm sút, đã chỉ
định cần làm những cuộc phỏng vấn gia đình (Nguyên
văn: “family interviews” – Ý nói là chuyển đến cho nhà trị liệu gia đình để
giúp gia đình này – ND). Lý do chính thức là sự thiếu giao tiếp trong
gia đình này kể từ cái chết của người mẹ. Họ đã đồng ý rằng họ thực sự không
còn nói chuyện với nhau nữa và bầu không khí gia đình đang trở nên không thể chịu
đựng nổi. Bầu khí của hai phiên trị liệu đầu tiên cũng là một ví dụ hoàn hảo.
“Việc
đi qua tang chế (passage through mourning), trong thời gian mất đi một người
thân, là một loại hành vi cổ xưa. Bà ấy đang ở buổi bình minh của những suy
nghĩ. (Nguyên văn: “She is at the dawn of thought”/” Elle
est à l’aube de la pensée”: Hàm nghĩa “Người đã khuất đã Bắt đầu đi sang một
cõi giới khác” – ND)
Và,
chính thông qua nỗi đau mất mát, trong đó cái chết xuất hiện như một dấu chấm hết,
giống như một tai nạn của cuộc đời, một chướng ngại vật phải tránh hằng ngày bằng
những lời cầu khẩn.
Ý
niệm về sự hữu hạn là không thể chịu đựng được đối với ý thức vốn đảm bảo sự tồn
tại…
Chính
thông qua việc hình dung về sự mất mát ấy (representation of disappearance) mà những
ý niệm về thời gian, về những vết tích và về lịch sử đã được đào sâu. Ngôi mộ
là nơi khởi nguồn của ký ức. Nỗi đau, bắt nguồn từ tang chế, sự hữu hạn bắt nguồn
từ những giới hạn vốn tạo nên nền tảng cho những gì đến sau của lịch sử của
loài người. "
Tang chế (F: Deuil; E: Mourning) – Một định nghĩa thông thường
Điều đáng chú ý là thời kỳ đưa
tang, mặc dù nó là chủ đề của nhiều bình luận và nhiều tác phẩm, lại thường được
tìm thấy nhiều nhất, hàng ngày tại những phòng khám, tạo nên những hồ sơ mơ hồ về
bệnh trầm cảm và vì thế, được điều trị mà không cần cố gắng làm thêm điều gì, rồi
tuỳ theo sự lựa chọn của bác sĩ và theo nỗi đau đớn mà vị ấy cảm nhận được trên
vẻ mặt của những tang quyến, sẽ sử dụng một thứ “hỗn hợp chữa trị tổng
quát", bao gồm các thuốc chống lo âu, thuốc chống trầm cảm và thuốc an thần
kinh.
Tất cả chúng ta đều cảm thấy rằng
mình đã hiểu biết về sự thương tiếc và chúng ta định nghĩa nó như là một phản ứng
cảm xúc với nỗi đau khổ, thương tiếc và tuyệt vọng có tính luân lý mà mỗi con
người sẽ phải trải qua khi mất đi một người thân yêu.
Tuy nhiên, định nghĩa này, vừa
rời rạc, vừa hời hợt, dường như khiến chúng ta thường hay trở thành nguồn gốc “gây
hại khi muốn giúp đỡ” (Nguyên văn tiếng Pháp: “source
de iatrogénie”, với hàm nghĩa của từ “iatrogénie” là “do phương pháp chữa trị
gây ra” – ND) ở chỗ nó không xem xét đến các quá trình phức tạp đang diễn
ra trong giai đoạn tang chế mà chỉ mở lời an ủi một cách dè dặt theo kiểu như:
"Thật khó cho bạn, nhưng mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi!" Và trong khi
chờ đợi, tôi sẽ cho bạn một loại thuốc chống trầm cảm… ”
“Cảm
giác mất mát chỉ nảy sinh khi các mối liên kết bị phá vỡ. Đó là khi các liên kết
càng mạnh mẽ, cảm giác mất mát ấy càng nhiều hơn. Đó là khoảng thời gian đau lòng,
hiện ra nỗi thiếu thốn. Sau đó là một thời kỳ đau khổ vì thời gian không thể
giúp nguôi ngoai. Cuộc sống không thể sắp xếp lại được, một thế giới khép lại với
những câu chuyện không được kể, những câu chuyện chỉ có thể hiểu được ý nghĩa thông
qua những thuật ngữ của chúng.
Thương
tiếc (mourning: đưa tang) là
khoảnh khắc của sự kinh ngạc về khả năng không thể lấy lại điều đã mất và để lại
quá nhiều thứ mà lẽ ra đã có thể tốt hơn rất nhiều. Đó là thời điểm của những
sai sót, của những tội lỗi”
Quá
trình đưa tang và thời kỳ của nỗi buồn: Sự nhầm lẫn lập đi lập lại
Thời kỳ của nỗi buồn, rất dễ nhận
thấy trong diễn trình thương tiếc (tức “tang chế” - E: grieving/mourning process; F: processus
de deuil), được thể hiện qua một cảm nhận phức tạp về một sự mất mát không thể
bù đắp được, về giá trị bản thân và sự bất lực; mặc dù có thể xem là ngoạn mục,
đó chỉ là một trình tự (sequence) của quá trình thương tiếc. Một vấn đề, cả về
mặt lý thuyết lẫn về mặt kỹ thuật, đó là trình tự này thường bị nhầm lẫn với
chính tiến trình thương tiếc, bởi những người thực hành ở tất cả các mức độ cao
thấp trong ngành (praticiens de tous bords). Thực tế là các yêu cầu, do đương sự
hoặc do những thân nhân nêu ra, dường như đã được tóm gọn thành lời than phiền cố
hữu trong thời kỳ thương tiếc. Sự mê hoặc mà lời than phiền này đặt ra cho những
chuyên viên thực hành, gây tổn hại đến các giai đoạn khác của quá trình tang chế,
có lẽ được giải thích bởi điều sau đây.
Sự trở ngại đến tầm nhìn rộng
hơn và năng động hơn về hiện tượng thương tiếc có xu hướng khiến các thầy thuốc
thực hành “gắn chặt” (lock) quá trình thương tiếc vào trong mô hình trầm cảm cổ
điển và sẽ ủng hộ mạnh mẽ cho việc lựa chọn giải pháp điều trị y khoa (Nguyên văn – E: “molecules” option; F: l’option “molecules”;
nghĩa đen là “giải pháp “phân tử”, nghĩa bóng chỉ việc “điều trị y khoa, dùng thuốc
- ND)
"Giai
đoạn tang chế là cuộc đối đầu lạ lùng giữa thời gian đang trôi qua của những
người đau khổ với thời gian đã dừng lại, vốn buộc phải tái tạo lại lịch sử ..."
Bối
cảnh tang thương và sự lây lan cảm xúc (contagion affective)
Sự lây truyền cảm xúc, còn được
gọi là “giao tiếp tức thời” (E: instant communication; F: communication
instantanée), là quá trình chung của con người qua đó cảm xúc được truyền lan
và chia sẻ. Chỉ cần một ai đó mà ta cảm thấy đủ gần gũi, đôi khi ngay cả một
con vật, thể hiện một cảm xúc để chúng ta cảm nhận được; thì những đối tượng mà
chúng ta cảm thấy về căn bản là “khác” sẽ không thể chia sẻ cảm xúc của họ với
chúng ta. Quá trình lây nhiễm tình cảm này là độc đáo ở chỗ nó không cho phép một
sự tiên nghiệm (priori) về bất kỳ khác biệt nào giữa tôi và người khác: không
thể biết đâu là cảm xúc mà tôi cảm thấy và điều người đó cảm thấy, để sau cùng
tôi thấy được sự trải nghiệm, đến từ người ấy hay đến từ tôi. "Khoảng
cách" nổi tiếng (F: La fameuse “distance”; E: The famous
"distance") mà các chuyên viên thực hành lâu năm đề nghị với những
người trẻ tuổi đó là cơ chế phòng vệ được sử dụng phổ biến nhất để lập một rào
cản đối với sự lây lan cảm xúc, trong lúc thấu cảm vẫn áp dụng tính chất chuyên
nghiệp toàn vẹn.
Vẻ sầu thương là một trong những
biểu cảm tự nó dễ gây lây lan cảm xúc nhất, có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tất cả
những ai đang phải đối mặt với nó, bao gồm cả những chuyên viên. Nước mắt, giống
như bất kỳ biểu hiện cả không lời lẫn bằng lời (analog and verbal expression) về
nỗi đau luân lý (moral pain) (khuôn mặt não nuột, cử chỉ và điệu bộ đau đớn, trang
phục sẫm màu) kích thích ở những người chứng kiến hai chuyển động trái ngược
nhau: mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh này (khi cảm thấy nó đang xâm chiếm họ) và
mong muốn đến để giúp đỡ người đó (vì họ bị đã bị hoàn cảnh đó xâm chiếm).
Ngoài ra, chính thông điệp về hỗ trợ cho người mất người thân cũng rất mâu thuẫn:
Một mặt, nó thể hiện như một yêu cầu hiển nhiên cần được giúp đỡ, và mặt khác, người
ấy muốn biểu thị cho các nhân chứng bằng những dấu hiệu cho thấy mọi nỗ lực của
mình đều sẽ vô ích (xem hai phiên đầu tiên, trong
ca gia đình M. - ở Phần 2). Bị mắc kẹt trong một “mối ràng buộc kép” (F:
double contrainte; E: double bind), những nhân chứng (witness – ý chỉ những người
tham dự và chứng kiến cảnh đau thương – ND) sẽ thấy khó khăn để chịu đựng được,
ban đầu nhân chứng sẽ có xu hướng phản ứng với lòng trắc ẩn thái quá, nhưng sau
đó sẽ thoái lui hoặc phản ứng hung hăng, công kích.
“Tang
chế là một thời khoảng mãnh liệt của cuộc đời, trong đau đớn, buồn thương, trong
tức giận tuyệt vọng, trong cách tái dựng lại việc giải thích một cách vô ích về
những sự kiện bất công, oan ức. Những hồi trống của sự sống vang lên và những
hành động xua đuổi cái chết bằng cách kêu gọi sự sống là những khoảnh khắc mãnh
liệt và trọng đại, tạo xúc chạm đến những điều bí ẩn được thừa hưởng từ những
bi kịch lớn lao trong lịch sử nhân loại. "
Thời
kỳ tang chế: Chừng mực/Thái quá (Le temps du deuil: mesure/démesure)
Thời kỳ tang chế có sự khác biệt
đáng kể về cách biểu hiện, tùy theo “thước đo” (F: l’aune; E: yardstick) của
tang quyến hoặc của các nhân chứng. Người ta không thể tự động đo tính được
khác biệt giữa khoảng thời gian mà một tang quyến cần phải vượt qua “lãnh địa”
của tang tóc (thời gian của những dự thảo tỉ mỉ - E: “time of elaboration”; F: “temps
d’élaboration”), với thời gian có thể được dung nạp bởi những người xung quanh,
ít gần gũi hơn với tang quyến (thời gian dung nạp – F: “temps de tolérance”; E:
“time of tolerance”).
Hầu hết các bác sĩ lâm sàng đều
đồng ý rằng thời gian đưa tang (hoặc tiếc thương) một người thân yêu qua đời
thường cần từ 2 đến 3 năm, với năm đầu tiên là đặc biệt khó khăn vì nó được
đánh dấu bằng những ngày lưu niệm về đủ mọi việc. Những người khác xung quanh
hiếm khi chịu nhận những biểu hiện tang chế lâu quá sáu tháng! Ngoài ra, họ
cũng có xu hướng xem việc than khóc là “bệnh lý” (pathological) và cần thực hiện
các biện pháp thích hợp để làm cho nó biến mất.
Vấn đề là một số chuyên viên thực
hành, thiếu hiểu biết (uninformed), thường xuyên được tiếp cận với những tang
quyến, lại có xu hướng phản ứng theo cùng một cách như sau: Trong vài tháng, họ
chịu đựng những biểu hiện của nỗi buồn và tuyệt vọng, và sau đó không còn hỗ trợ
cho tang quyến nữa vì họ thấy mình đang bị những cảm giác khó chịu xâm chiếm. Đau
đớn, bất lực, họ phản ứng để tự bảo vệ mình khỏi những điều đó: Các bác sĩ sau
đó kê đơn thuốc chống trầm cảm và thuốc giải lo âu, trong khi các nhà trị liệu
tâm lý cá nhân sẽ có xu hướng tự định hướng bản thân đến một liệu pháp để chữa
trị trầm cảm, với ngụ ý về sự "bất diệt của tang chế" (F: l’«
éternisation » de ce deuil) – Chỉ là các vấn đề chia ly cũ trước đây bị sự mất
mát cụ thể hôm nay làm cho trầm trọng thêm. Cuối cùng thì là những phản hồi
tiêu cực (negative feedback) vì nó củng cố cho sự cân bằng của một mối quan hệ
bổ sung cứng nhắc (… it reinforces the balance of a rigid complementarity of
relations).
Liệu có dư thừa khi dành thời gian để tang?
Thời gian để tang thay đổi tùy
theo các chuẩn tắc của thời đại và bối cảnh văn hóa mà nó diễn ra. Nhưng trên tất
cả, thời gian tang chế, cũng tương tự như bất kỳ cuộc khủng hoảng nào, có tính
đặc hiệu của một “quá trình-trạng thái” (state-process): trong tang tóc, chịu đựng
thương tiếc (F: “être en deuil, porter le deuil”), một trạng thái đau thương với
những cung bậc xúc động mãnh liệt và một thành phần thông điệp không lời mạnh mẽ
(F: forte composante analogique; E: strong analogical component): than khóc, học
cách sống khi thiếu người đã khuất, thể hiện nỗi mất mát và cố gắng mô tả lại
nó trong một câu chuyện theo một lộ trình đi từ cảm nhận đến nghĩ suy, từ trải
nghiệm đến biểu hiện.
“Tang chế không chỉ là thời gian của nỗi đau, cũng không chỉ là thời gian đối mặt với điều không thể bù đắp, nó chính là thời gian để tổ chức lại các mối quan hệ trong một gia đình và cả những sự cộng hưởng bên trong những mạng lưới cá nhân và nghiệp vụ (resonances in personal and professional networks)".
(*) E: ”resonances in personal
and professional networks” (F: “de résonances dans les réseaux personnels et
professionnels”) – Tác giả muốn nói đến những cộng hưởng xảy ra ở những nhà
chuyên môn khi làm việc – Chú thích của ND.
Đón
xem tiếp Phần 2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét