“Allen Frances on the DSM-5,
Mental Illness and Humane Treatment”
Nguồn: PsychoTherapy.Net - 2008
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
Cuộc phỏng vấn được thực hiện bởi Lawrence Rubin (LR) với Allen Frances (AF), một bác sĩ tâm thần nổi tiếng, người từng đứng đầu nhóm chuyên trách soạn thảo DSM-IV (DSM-IV Task Force), để bàn về những sai lầm trong quá trình chẩn đoán hiện nay và cách làm thế nào để chỉnh sửa lại hệ thống cung ứng dịch vụ sức khoẻ tâm thần đang bị phá hỏng.
Kỳ
3 và hết
NHƯNG
TRƯỚC TIÊN, LÀ PHẢI KHÔNG GÂY HẠI
(First,
Do No Harm)
LR: Không gây hại.
AF: Không gây hại.
Anh ấy cũng nói rằng điều quan trọng là biết về người bệnh nhân đang mắc bệnh, thay
vì là biết về căn bệnh mà bệnh nhân đang mắc phải. Tôi không tin tưởng những
bác sĩ chỉ làm dựa trên việc kiểm tra những danh sách của DSM. Họ không biết bệnh
nhân. Còn về phần các bác sĩ lâm sàng không biết DSM và thực hiện các đánh giá theo
kiểu “tự do, không khuôn khổ” (free-floating evaluations), tôi tin rằng họ vẫn
tính đến những cách thức mô tả kỹ về những cá nhân có thể gặp vấn đề và còn có cả
một bộ hướng dẫn rất hữu ích nữa. Tôi nghĩ rằng mỗi cuộc gặp lâm sàng cần phải
là sự phối hợp cùng làm việc chặt chẽ qua lại giữa người với người (ngụ ý: giữa
nhà trị liệu và bệnh nhân – ND), rằng hướng dẫn DSM không bao giờ được áp dụng
một cách mù quáng cho từng cá nhân vì giữa những con người ấy có rất nhiều khác
biệt. Nó phải được tùy chỉnh theo tình huống của từng cá nhân cụ thể. Đồng thời,
nếu không biết các chẩn đoán của DSM có thể dẫn đến việc bỏ sót những điều hết
sức quan trọng trong việc lập kế hoạch điều trị.
LR: Âm tính giả
chăng. (False Negatives)
(“Âm tính giả”: Ý nói những trường
hợp có bệnh nhưng không được chẩn đoán – ND)
AF: Những người
phỏng vấn giỏi là những người có thể hình thành mối quan hệ tuyệt vời với bệnh
nhân của họ, hợp tác làm việc để hiểu chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị và có
thể sử dụng DSM mà không cần tôn thờ nó.
LR: Có vẻ đó là
điều cần thiết, như ông đã nói đó là dành thời gian nhiều hơn, hiểu biết sâu
hơn và không nên đi vào chẩn đoán quá nhanh. Điều này có vẻ trái ngược với cách
mà tâm thần học và thậm chí cả tâm lý học được thực hành ngày nay. Và các chuyên
viên lâm sàng ngày càng chịu nhiều áp lực hơn trong việc chỉ định chẩn đoán
nhanh chóng và xây dựng kế hoạch điều trị trong vòng một hoặc hai phiên làm việc
đầu tiên. Ông có lời khuyên nào cho các nhà lâm sàng đang chịu áp lực như vậy
và cho những ai không thể có sự linh hoạt và không đủ thời gian mà chúng ta biết
là rất cần thiết?
AF: À, trước
tiên hết phải nói là hệ thống này thật điên rồ. Các công ty bảo hiểm làm điều
này bởi vì họ nghĩ rằng nó sẽ hạn chế bớt chi phí, nhưng nó lại có tác động xấu
là buộc mọi người phải đưa ra quyết định sớm và thường sẽ dẫn đến việc điều trị
tốn kém hơn. Cho một người dùng thuốc có khả năng tạo ra một sự cam kết để gặp
lại bệnh nhân đó trong một thời gian dài. Chẩn đoán có thể làm tăng chi phí
chăm sóc suốt đời của người đó. Nếu các công ty bảo hiểm cho thêm thời gian để
đánh giá, rất rất nhiều vấn đề được chẩn đoán và điều trị lâu dài vẫn có thể tự
nó sẽ biến mất theo thời gian và chỉ nhờ vào những lời khuyên đơn giản.
Hệ thống này cũng có tính chất phản xây dựng.
Chúng ta càng dành nhiều thời gian cho mọi người trong quá trình đánh giá, trước
khi chẩn đoán và trước khi điều trị, thì càng ít cần đến những chẩn đoán và
càng ít cần đến những cách điều trị suốt đời. Và thực sự sẽ tiết kiệm chi phí
hơn nhiều nếu cho mọi người thời gian để tìm hiểu tình hình ngay từ đầu. Tôi
nghĩ rằng, đối với những chuyên viên thực hành, điều quan trọng là luôn luôn
“không cần đến chẩn đoán” (Tạm dịch từ nguyên văn: “underdiagnose”). Điều quan
trọng trước tiên là phải loại trừ vai
trò có thể có của thuốc và các triệu chứng. Anh biết đấy, rất thường xuyên,
hàng trăm, hàng trăm lần trong đời hành nghề của tôi, những triệu chứng mới xuất
hiện thường là do thuốc.
LR: Nghĩa là do
thuốc gây ra (iatrogenic)?
AF: Một người
trung bình trên 60 đến 65 (tuổi) đang uống năm, sáu, hoặc bảy viên thuốc. Các
nghiên cứu gần đây cho thấy có bao nhiêu người trong số họ bị trầm cảm và lo âu
là do tác dụng phụ. Và những người lớn tuổi đặc biệt thì càng ít có khả năng bỏ
dùng thuốc hơn. Vì vậy, ta có sự kết hợp giữa việc có nhiều loại thuốc có thể
gây ra tác dụng phụ với việc có một người không thể bỏ sử dụng những loại thuốc
đó. Và rồi các triệu chứng mới thường lại được điều trị bằng một loại thuốc
khác, thay vì nhận ra đó là hiệu ứng phụ. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng là phải
loại bỏ việc dùng thuốc kiểu này. Quan trọng là phải loại trừ các chất. Quan trọng
là phải loại trừ các vấn đề y khoa (medical problems). Việc này phải được thực
hiện ngay trong các phiên đầu tiên. Tôi cho đó là điều có tính bắt buộc. Nhưng
ngoài những điều đó, tôi nghĩ điều quan trọng là không nên nhảy ngay đến một chẩn
đoán suốt đời mà chỉ dựa trên một số những thông tin rất hạn chế. Và ít nhất,
ngay từ đầu, cần phải có hướng “bình thường hóa” (normalize), thay vì “bệnh lý
hoá” (pathologize) trong việc xem xét tình huống. Chúng ta mới nhìn thấy người ta vào
những ngày tồi tệ nhất trong cuộc đời của họ thì đã có xu hướng đưa ra kết luận
về họ. Tương lai của họ đâu có chính xác như thế. Vài ngày, vài tuần sau đó họ sẽ
rất khác.
TÂM
TRÍ, CƠ THỂ HOẶC CẢ HAI
LR: Làm thế nào
mà một nhà trị liệu tâm lý trung bình có thể phát triển một mối quan hệ lành mạnh
hơn theo mô hình sinh học-tâm lý-xã hội (biopsychosocial model)? Tôi biết ông
nói rằng ông phải xem xét chủ đề lạm dụng chất (substance abuse). Ông phải tìm
những tác dụng gây bệnh của chính việc dùng thuốc (iatrogenic effects of
medication). Ông phải xem xét thuốc hướng thần (psychotropics) mà họ đang sử dụng.
Vậy làm thế nào mà nhà trị liệu tâm lý bình thường, người không đặc biệt hiểu
biết về thuốc hướng thần, thực sự có được sự hiểu biết đầy đủ về các mặt tâm lý-sinh
lý-xã hội của con người, những sinh vật rất phức tạp này?
AF: Tôi nghĩ một
trong những tổn thất lớn lao theo thời gian là mô hình sinh học-tâm lý-xã hội,
đặc biệt là do cuộc chiến vô tâm giữa những người có quan điểm hạn hẹp chỉ biết
về sinh học, hoặc chỉ biết về tâm lý, hoặc chỉ biết về xã hội. Tôi nghĩ rằng
không thể hiểu được sự phức tạp của bản chất con người, cách chúng ta hoạt động
và các rối loạn chức năng mà lại không tính đến cả vấn đề sinh học, tâm lý và
xã hội, và đôi khi có những vấn đề tâm linh (spiritual issues) mà con người gặp
phải. Và tôi nghĩ điều quan trọng không kém là các bác sĩ tâm thần phải là những
nhà trị liệu tâm lý giỏi và hiểu được cách mà các áp lực xã hội dẫn đến các triệu
chứng. Điều quan trọng không kém là các nhà tâm lý học phải hiểu chẩn đoán và hiểu
cả về việc sử dụng thuốc. Ngay cả khi bạn không kê đơn thuốc, điều rất quan trọng
là phải hiểu khi nào nên và khi nào không nên sử dụng thuốc. Nếu không có lý do
nào khác, phải bảo đảm sao cho bệnh nhân không phải dùng quá nhiều thuốc, cũng
như biết thời điểm lúc nào phải chuyển gửi. Tôi nghĩ rằng mỗi chuyên viên lâm
sàng cần phải hoàn thiện. Tôi không nghĩ rằng việc đào tạo trong một chuyên
ngành lại cho phép không cần biết đến các công cụ sử dụng rộng rãi trong nhiều
chuyên ngành.
LR: Ông có nghĩ
rằng có một thứ gọi là “xu hướng giản lược tâm lý-xã hội” (psychosocial
reductionism) không? Tôi đã biết về “xu hướng giản lược y-sinh học” (biomedical
reductionism). Ông có thấy mối nguy hiểm ở thái cực kia , của xu hướng giản lược
tâm lý-xã hội không?
AF: Ồ, chắc chắn
rồi. Xu hướng giản lược tâm lý-xã hội, vâng, nó vẫn tồn tại và còn tồn tại tốt nữa, đặc biệt là ở Anh, nơi có sự lưu thong
qua lại liên tục. Một bộ phận năng động của các nhà tâm lý học người Anh đã có
một quan điểm khá cấp tiến rằng rối loạn tâm thần là một “liên thể với những gì
là bình thường” (continuum with normal). Các yếu tố sinh học đó đã được nhấn mạnh
quá mức trong bệnh tâm thần phân liệt. Và hầu hết các vấn đề mà bệnh nhân thể
hiện đều liên quan đến sang chấn thời thơ ấu. Và một lần nữa, mọi quan điểm đều
có giá trị, nhưng không có quan điểm nào thoả cả yếu tố cần và đủ.
LR: Có rất nhiều
chân lý (truths). Đã có xu hướng giản lược tâm lý-xã hội cũng giống như giản lược
sinh học trong nhiều cuộc tranh luận. Ông biết đấy, khi nói về xu hướng giản lược
y-sinh học và giản lược tâm lý-xã hội, tôi nhớ là vào khoảng thời gian mà DSM-5
được ra mắt, thì Viện Sức khoẻ Tâm thần Quốc gia (NIMH) đã thực sự giữ vững lập
trường và nói, “Vâng, các chàng trai và cô gái đã làm việc tốt, nhưng chúng ta
sẽ phải làm việc khá nhiều mới đạt tới Tiêu chí Nghiên cứu RDoC (Research
Domain Criteria)”. Rất nhiều nhà trị liệu tâm lý thực hành hằng ngày không làm
việc trong học viện, không đọc nhiều tạp chí chuyên ngành, không có ý tưởng sâu
sắc nhất về Tiêu chí RDoC là gì. Ông có thấy hệ thống đó hữu ích và hợp lệ
không? Cụ thể, ông thấy nó hữu ích như thế nào trong việc giảm bớt một số căn bệnh
do chẩn đoán quá mức và điều trị sai lầm này?
AF: Chà, DSM đã
có hứa hẹn to lớn như một công cụ nghiên cứu, nhưng nó đã thất bại ở chỗ chức
năng của não bộ và yếu tố di truyền là những thứ quá phức tạp, chúng ta càng học
nhiều, chúng ta càng nhận ra rằng mình hiểu ít ỏi như thế nào. Bộ não là thứ phức
tạp nhất được biết đến trong vũ trụ. Những bí ẩn của nó thật lâu mới được biết
đến. Rồi lại có đến không chỉ một vài, mà là hàng trăm gene liên quan đến tâm
thần phân liệt và mọi thứ rối loạn tâm thần khác. Tất cả các nghiên cứu về khoa
học thần kinh đã đạt được hiệu quả đáng kể. Một trong những cuộc phiêu lưu trí
tuệ vĩ đại của thời đại chúng ta là thực hiện nghiên cứu về cách hoạt động của não
bộ; tuy nhiên nó đã không giúp được gì cho một bệnh nhân nào cả!
Tôi nghĩ rằng chúng ta phải nhận thức được một
thực tế là không việc gì có thể đạt được một cách dễ dàng. Rằng chúng ta sẽ
không có những bước đột phá để giải thích được về bệnh tâm thần phân liệt hoặc
rối loạn lưỡng cực. Rằng mỗi tình trạng trong số này có thể là hàng trăm nghìn
tình trạng khác nhau có chung một số đặc điểm lâm sàng, nhưng có lẽ có cơ sở
sinh học rất khác nhau. Và chúng ta không nên bị khoa học làm cho mê muội đến mức
đánh mất việc chăm sóc những bệnh nhân thực sự trong hiện tại. Tôi nghĩ rằng vẫn
có rất nhiều hứa hẹn, rất nhiều hứa hẹn cao vợi trong tương lai, và ngân sách
NIMH của chúng tôi hầu như chỉ được chi cho nghiên cứu khoa học cơ bản, hầu như
không dành chút nào cho nghiên cứu lâm sàng, đến nỗi chúng tôi đang phớt lờ nhu
cầu của bệnh nhân ngày nay.
Đối với tôi, quả là một bi kịch khi chúng ta
có 350.000 bệnh nhân trong nhà tù và 250.000 người vô gia cư trên đường phố mà
chúng ta đang chăm sóc tối thiểu, chúng ta đang bỏ mặc những người đang rất cần.
Còn hầu hết các nghiên cứu đều đang cố gắng tìm ra những thứ có thể hữu ích cho
một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân trong tương lai. Trong khi đó, chúng ta biết cách chăm
sóc mọi người ngay bây giờ, chỉ là chúng tôi không làm điều đó thôi. Chúng ta
không đầu tư vào các chương trình điều trị cộng đồng, nhà ở, chương trình phục
hồi, những điều cần thiết để loại bỏ sự xấu hổ đối với đất nước của chúng tôi.
Hầu hết mọi quốc gia phát triển khác đều chăm sóc người bệnh tâm thần của họ tốt
hơn nhiều so với chúng ta. Mỹ là quốc gia bị bệnh nặng nhất Và đó không phải là
vấn đề của khoa học thần kinh hay khoa học nói chung, đó chỉ là ý thức chung,
thiết thực chăm sóc mọi người và coi họ như những công dân, chứ không bỏ mặc họ.
Và những gì chúng ta làm ở đất nước này là hầu như không cung cấp kinh phí cho
việc điều trị và hỗ trợ cộng đồng
LR: Trở lại ý
tưởng về chứng “rối loạn thiếu đồng cảm” (empathy deficit disorder). Ông nói về
khoa học, tôi thích quan điểm của ông về RDoC. Đó là một công cụ học thuật tuyệt
vời, nhưng có lẽ mãi đến năm 2635, chúng ta sẽ tìm thấy một gene nào đó góp phần
gây nên chứng rối loạn lưỡng cực, nhưng bao nhiêu người sẽ phải khốn khó và mất
mạng trước đó?
AF: Và tôi
không nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm thấy gene đó. Tôi nghĩ những gì chúng ta sẽ tìm
thấy, nó giống như trường hợp bệnh ung thư vú, chúng ta sẽ thấy rằng có một số
gene nhất định có sẵn trong một tỷ lệ rất nhỏ những người mắc chứng rối loạn
này. Và sự phức tạp là thế. Có một bài báo đưa ra 250 tác giả đã tìm thấy 105
gene gây bệnh tâm thần phân liệt, mỗi gene hợi khác một chút so với bình thường.
Và khả năng hoán vị và tổ hợp của những gene đó sẽ là vô cùng lớn. Điều đó nói
lên rằng tính phức tạp của những rối loạn này là rất lớn đến nỗi sẽ không có
câu trả lời đơn giản. Trong khi đó, chúng ta không được phép để người bệnh
không được điều trị, không có nhà ở và kết thúc trong tù. Các nguồn lực, kỹ thuật,
hoàn toàn hiển nhiên là cách thức dự phòng điều này, để làm cho đất nước của
chúng ta không trở thành kẻ lọt số đáng xấu hổ về cách chúng ta điều trị bệnh
tâm thần. Đây chỉ là vấn đề kinh phí và ý chí chính trị. Và người bệnh tâm thần
nặng là đối tượng thiệt thòi nhất, đối tượng dễ bị tổn thương nhất ở nước ta
(Hoa Kỳ - ND).
CHÍNH
MỐI QUAN HỆ MỚI LÀ YẾU TỐ GIÚP BÌNH PHỤC
LR: Tôi tìm thấy
một nghịch lý kỳ lạ trong tất cả những điều này. Khi tôi nghĩ về việc trị liệu tâm
lý-xã hội, tôi nghĩ đến số tiền bạc, thời gian, các nguồn lực, vốn nhân sự, những
thứ đã được chi để phát triển các phương pháp điều trị được chứng minh bởi thực
nghiệm này, và cuối cùng ông lại kết thúc với liệu pháp hành vi - nhận thức ở phần
chóp của cả khối thứ như vậy. Dường như có sự hưng phấn này trong tâm lý học và
liệu pháp tâm lý để phát triển các phương pháp điều trị được chứng minh bởi thực
nghiệm, mà nhiều người cho rằng đã lấy trái tim và linh hồn ra khỏi mối liên hệ
của con người, ra khỏi liệu pháp tâm lý. Ông có suy nghĩ gì về sự lệch lạc khoa
học này không và nó ảnh hưởng như thế nào đến lĩnh vực tâm lý trị liệu cũng như
việc thực hành lĩnh vực này?
AF: Tôi không
nghĩ nó sai lệch nhiều về mặt khoa học. Tôi nghĩ đó là do áp lực kinh tế; rằng
mọi liệu pháp đều muốn có mặt trong danh sách mà các công ty bảo hiểm sẽ trả tiền
cho nó. Và điều này dẫn đến một loại cạnh tranh để chứng minh rằng công việc của
bạn được xác nhận. Tôi đã theo lĩnh vực này đến nay đã được 40 năm. Tất nhiên,
tôi là thành viên của ủy ban NIMH đã từng tài trợ cho các dự án tâm lý trị liệu
mà giờ không còn tồn tại nữa, vì sự tập trung hiện tại của NIMH là vào (nghiên
cứu) não bộ. Nhưng phát hiện đáng chú ý trong tài liệu đó là - đây là một bài
báo đã được xuất bản cách đây 40 năm bởi Lester Luborsky - tất cả đều đã vận
hành, tất cả đều giành chiến thắng và tất cả đều xứng đáng được giải thưởng. Rằng
tất cả các liệu pháp tâm lý đều có thể hữu ích. Hơn tất cả các kết quả, hơn tất
cả sự khác biệt trong các kết quả, mọi chuyện giờ quay trở lại với nhà trị liệu
thông qua mối quan hệ với thân chủ, điều còn hơn tất cả các kỹ thuật chuyên biệt.
Đó quả là điều thật là ngớ ngẩn khi có sự cạnh tranh giữa các kỹ thuật trị liệu,
bởi tất cả đều cần thiết.
Tôi nghĩ để trở thành một nhà trị liệu, bạn
nên thông thạo từng loại liệu pháp đơn lẻ, bởi vì có sự khác nhau giữa các bệnh
nhân, thậm chí ngay cả trong bản thân chính họ và những gì họ cần trong một thời
điểm nhất định. Và nó không thể là một thứ gì đó duy nhất, như thể các kỹ thuật
nhận thức vốn dĩ tốt hơn các kỹ thuật tập trung vào tâm lý hoặc tập trung vào
hoàn cảnh xã hội. Các kỹ thuật khác nhau sẽ khác đi vào những thời điểm khác
nhau. Và yếu tố kỹ thuật nói chung chỉ hữu ích trong bối cảnh của một mối quan
hệ có tính nuôi dưỡng và có tính chữa lành (the technique in general is useful
only in the context of a relationship that's nurturing and healing). Và điều
quan trọng nhất trong khả năng bình phục bởi liệu pháp tâm lý có lẽ là bản chất
của mối quan hệ và nhu cầu để có được một sự phù hợp cá nhân giữa hai con người.
Tôi nghĩ đã có điều không may - có một xu hướng không may là đã phát triển những sự cạnh tranh. Cạnh tranh giữa
việc dùng thuốc với các phương pháp tiếp cận tâm lý - xã hội. Cạnh tranh giữa
các kỹ thuật tâm lý trị liệu khác nhau. Một bác sĩ lâm sàng thực sự toàn diện phải
giỏi mọi thứ, và đặc biệt là phải giỏi thiết lập quan hệ với những người mà họ
đang cố gắng điều trị.
LR: Tôi phải
nói với ông, Allen ạ, thật là khoan khoái khi nghe một người trong ngành y, một
bác sĩ tâm thần, đặc biệt lại là một người có liên quan đến lịch sử của DSM biết
về “hiệu ứng chim Dodo” (Dodo Effect), và thực sự đánh giá cao điều đó. Thế này,
ông có một nhà trị liệu bậc trung đang làm việc trong một trung tâm chăm sóc sức
khỏe tâm thần cộng đồng, thậm chí có thể ở một nơi tạm trú dành cho người vô
gia cư, nhà trị liệu ấy vẫn nhận biết rằng kỹ thuật gần như không quan trọng bằng
mối quan hệ. Và sau đó, nhà trị liệu ấy gặp một thân chủ, ngay lúc đó có vẻ như
bị loạn thần, hoặc có chút thông tin về tiền sử của người này bị rối loạn lưỡng
cực hoặc tâm thần phân liệt, và phản xạ đầu tiên của chuyên viên ấy có thể là
“Tôi phải đưa người này đến gặp bác sĩ tâm thần. Tôi phải tìm xem có vấn đề gì
với họ về mặt y kho hay không”. Một chuyên viên ở cấp trung đó sẽ làm gì, dẫu
trong thâm tâm họ biết rằng mối quan hệ là yếu tố rất quan trọng, nhưng họ cũng
chịu những áp lực về khía cạnh y-sinh học là phải chuyển bệnh nhân đến bác sĩ
tâm thần, hoặc ít nhất là một bác sĩ chăm sóc ban đầu?
AF: Chà, tôi
nghĩ mọi thứ đều quan trọng. Bạn đã đề cập đến những bác sĩ chăm sóc bann đầu
(primary care doctors). Những người mắc bệnh tâm thần phân liệt chết sớm hơn 20
năm so với phần còn lại của dân số chung. Và khoảng cách đó đã tăng lên trong
những năm gần đây và ở Mỹ cao hơn nhiều so với các quốc gia khác, bởi vì chúng
ta đã bỏ bê người dân quá nhiều. Đây không thể chỉ có một câu trả lời.
Chúng tôi lược bỏ bớt vài phần AF
nói về tình hình chính trị, kinh tế-xã hội và về ngành tâm thần học của Hoa Kỳ,
và cả về điều mà ông gọi là “Tình trạng tranh tối tranh sáng của sự lành mạnh
kiểu Mỹ” (Twilight of American Sanity)
MỐI
QUAN HỆ LÀ TẤT CẢ
LR: Tôi nghĩ
đây sẽ là một dạng câu hỏi tóm lại câu chuyện – Giả sử ông nhìn lại và tư vấn
cho một Allen Frances trẻ tuổi hơn, ông sẽ đưa ra lời khuyên nào cho “anh ấy”
khi ở giai đoạn đầu của sự nghiệp mà nó có thể làm thay đổi hướng đi của “anh ấy”,
hoặc ông có hài lòng với cách thức mà thực tế đã được diễn ra?
AF: Nó diễn ra
chủ yếu là do tình cờ, và sau đó chỉ đơn giản là làm công việc của bạn. Tôi
không nghĩ rằng có - tôi nghĩ, thực sự có một lời khuyên cho mọi người; đó là lắng
nghe thân chủ hoặc bệnh nhân mà bạn đang làm việc cùng và hãy học hỏi từ họ.
LR: Họ là những
giáo viên tốt nhất của chúng ta nếu chúng tôi để họ làm như thế.
AF: Và hãy là
chính mình. Bạn có thể học mọi thứ, nhưng cũng hãy là chính mình.
LR: Một cảm
giác thật sảng khoái đến từ một bác sĩ tâm thần, chỉ là một lưu ý có tính cá
nhân, đó là anh trai tôi cũng là một bác sĩ tâm thần, sẽ nghỉ hưu vào cuối
tháng này sau 40 năm. Anh ấy đang làm nốt những gì phải làm với một danh sách
350 bệnh nhân của mình. Và tôi tự hỏi anh ấy sẽ như thế nào khi nhìn lại sự
nghiệp của mình. Anh ấy đã giúp bao nhiêu người, và ca nào là ca nổi bật trong
số đó. Ông có câu chuyện về một thân chủ cụ thể nào tâm đắc đối với ông không?
AF: Tôi nghĩ
đây là điều đáng nói nhất và điều này có thể hữu ích cho mọi người. Rằng tôi đã
điều trị cho nhiều người trong 14 năm và không tác động lên cuộc sống của họ.
Tôi đã làm việc trong những phòng cấp cứu trong cả quá trình hành nghề của
mình. Và tôi đã gặp mỗi người trong 5 phút và nhiều năm sau họ quay lại và nói,
“Ông đã nói thế và điều đó đã thay đổi cuộc đời tôi”. Bạn không bao giờ biết
khi nào và những gì bạn nói lại có thể có tác động to lớn đến ai đó. Và vì thế,
cứ mỗi lần tiếp xúc với một ai đó mà bạn gặp, ở mỗi khoảnh khắc, bạn nên suy
nghĩ rằng “Liệu tôi có thể nói điều gì mà nó có thể tạo ra sự khác biệt?” Và nếu
bạn điều trị cho bệnh nhân như những con người, thì mọi khoảnh khắc đều có thể
có tiềm năng gây ra những tác động, không phải những viên thuốc, không phải những
triệu chứng, không phải những chẩn đoán. Tôi cho rằng thông điệp cốt lõi trong
cuộc trò chuyện của chúng ta là bạn phải thực sự tập trung vào con người.
Ý tôi là, hai từ có tác động nhiều nhất đến mọi
người mà tôi nhớ trong nhiều năm là DO IT - “Hãy làm điều đó”, bởi vì mọi người
cứ hay quan tâm, liệu mình nên làm điều này, hay mình nên làm điều kia? Tôi thì
chỉ nói "hãy làm điều đó." Và bằng cách nào đó, tại thời điểm đó, nó
đã kết tinh năng lượng và động lực của họ để làm điều gì đó mà họ muốn làm.
Chúng ta không nên ngại ngùng khi cố gắng tìm ra điều gì có thể giúp ai đó làm
được điều mà họ không thể làm được.
Mối
quan hệ là tất cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét