“Providing Mental Health Services to Clients in Crisis or
Disaster Situations”
Tác giả: HOWARD B.
SMITH
Nguồn: Hội Tham vấn Hoa Kỳ (ACA)
Người dịch: BS NGUYỄN
MINH TIẾN
Kỳ 3 và hết
Có lẽ sai sót thường gặp nhất của
một chuyên viên thực hành được huấn luyện kém trong lĩnh vực này đó là thường
hay “bệnh lý hoá” (pathologize) thân chủ của mình. Thật vậy, những phản ứng của
thân chủ có thể diễn tiến cấp tính, can thiệp vào chức năng sống thường ngày, ít
ra cũng làm thân chủ khó chịu và mất sức sống, tùy theo loại sự kiện gây thảm hoạ
là gì; tuy nhiên, đây là những cảm nhận, cả về thể lý lẫn cảm xúc, khiến người ta
có thể trông đợi sẽ có tình trạng sang chấn đi kèm theo sau đó. Ở mức độ tệ nhất
là khi một sự đánh giá kém dẫn đến kết quả là nhập viện quá mức cần thiết
(overhospitalization) (Hoff, 1995). Shapiro and Koocher (1996) đã lưu ý chúng
ta về một giả định cơ bản trong can thiệp khủng hoảng đó là: phần lớn các phản ứng
đối với khủng hoảng là KHÔNG phải bệnh lý. Theo Hoff (1995), chỉ riêng việc ta “chẩn đoán” (hoặc “đánh giá quá mức”) một người nào đó đang trải qua khủng
hoảng thì ta đã xem các phản ứng với khủng hoảng như là một căn bệnh, thay vì
là một cơ hội để tăng trưởng.
Điều quan trọng là cần phải nêu ra đây một bàn luận tóm tắt (brief discussion) về cách phân loại tâm lý theo mức độ
nặng nhẹ (psychological triage). Các chuyên viên sức khoẻ tâm thần “tầm trung”
thường không xem xét việc cung ứng dịch vụ theo nhãn quan phân loại nặng nhẹ
(triage perspective). Các chương trình đào tạo tham vấn của chúng ta (Hoa Kỳ)
hiếm khi chạm đến chủ đề này. Cách tiếp cận phân loại nặng nhẹ (triage
approach) cung cấp một quá trình lấy quyết định về việc ưu tiên điều trị sao
cho số người nhận sự chăm sóc đúng đắn có thể đạt mức tối đa và những mất mát thì
có thể được hạn chế đến mức tối thiểu tuỳ theo hoàn cảnh. Phần việc ban đầu của
cách phân loại nặng nhẹ là phải xác định những cá nhân nào đang chịu tác động
rõ rệt nhất bởi khủng hoảng hoặc thảm hoạ để họ có thể tức thời nhận được sự hỗ
trợ tâm lý ban đầu (psychological first aid). Nó cũng bao gồm việc lấy những
quyết định liên quan đến nhu cầu cần trị liệu tâm lý dựa trên diễn biến của
tình hình. Ngoài ra, đây cũng là công cụ để xác định ai là người không cần đến bất
kỳ sự hỗ trợ nào.
Myer (2001) cho rằng nếu muốn đạt
hiệu quả tối ưu các chiến lược can thiệp khủng hoảng phải thoả 3 tiêu chí như
sau:
Một là, can thiệp khủng hoảng
là quá trình có tính chất giới hạn về thời gian, một khoảng thời gian kéo dài
không quá 6 tuần. Số lượng và thời lượng của các phiên làm việc thay đổi rất
nhiều tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của các vấn đề cụ thể mà thân chủ đang đối mặt
vào thời điểm đó. Mói chung, nếu một thân chủ cần sự hỗ trợ về sức khoẻ tâm thần
ngoài thời gian 6 tuần này, cách tốt nhất là chuyển người đó sang một liệu
trình liên tục hơn (ongoing therapy).
James and Gilliland (2005) nhấn
mạnh các can thiệp trong khoảng thời gian này cần phải có tính định hướng hoạt
động (action oriented), phải cho thân chủ những “bài tập về nhà” (home
assignments) để họ thực hiện bên ngoài các phiên trị liệu.
Hai là, can thiệp khủng hoảng
phải nêu ra một chủ đề chuyên biệt và cố gắng giúp thân chủ giải quyết chủ đề
đó. Vì thế, phải tập trung vào việc thiết lập và duy trì những mục đích thực tế
chỉ riêng cho chủ đề ấy thôi. Nếu các chủ đề khác phát sinh, phải bảo đảm rằng chúng
phải có liên quan đến việc giải quyết sự kiện gây khủng hoảng hoặc thảm hoạ.
Ba là, có một “chiều kích trị
liệu độc đáo” (unique treatment dimension). Slaikeu (1990) cho rằng mục đích của
“can thiệp bậc 1” (first-order intervention) là tái thiết lập khả năng ứng phó
tức thời và cung cấp sự hỗ trợ. Việc này có thể được gọi là hỗ trợ tâm lý ban đầu
(psychological first aid) như đã nêu ở phần trên. Đây là điều tối quan trọng để
giúp thân chủ trở lại làm chủ sức mạnh của bản thân họ. Điều này đòi hỏi các
chuyên viên thực hành cung cấp sự hỗ trợ, nhưng trọng tâm phải là phần hoạt động
chức năng (functionality). Các mục đích của can thiệp khủng hoảng bậc 2
(second-order) là thống hợp các trải nghiệm vào cuộc sống của thân chủ bằng
cách phát triển những kỹ năng ứng phó mới và thích ứng với khủng hoảng hoặc thảm
hoạ như là một phần “quá khứ” của thân chủ (nhấn mạnh vào “quá khứ”, “đã qua”)
để giúp họ đi đến chỗ nhận ra “tôi là một người sống sót/người đã trải qua” (I’m
a survivor) thay vì nhận ra theo kiểu “tôi là một nạn nhân” (I’m a victim).
Greenstone and Leviton (2002) đưa ra một số lời khuyên hữu ích cho các chuyên viên sức khoẻ tâm thần để can thiệp khủng hoảng hiệu quả:
(1) Hành động tức thời để ngăn lại việc “chảy máu cảm xúc” (emotional bleeding)
(2) Giữ quyền kiểm soát (take control) và bằng cách làm như thế ta có thể giúp tái lập trật tự đối với tình trạng hỗn độn đang diễn ra trong cuộc sống lúc đó của thân chủ
(3) Đánh giá tình thế một cách chính xác để xác định điều gì đang gây rối loạn cho thân chủ ở ngay thời điểm đó
(4) Quyết định cách làm thế nào để xử lý tình huống đó bằng cách giúp thân chủ nhận ra và huy động các nguồn lực của chính họ
(5) Thực hiện việc chuyển gửi thân chủ khi cần
(6) Theo dõi thân chủ để bảo đảm rằng họ đã tiếp xúc với nơi được chuyển gửi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét