“Dissociation and Multiple Personalities”
Tác giả: David G. Myers
Nguồn: Psychology – Seventh
Edition, Worth Publishers
Người dịch: Nguyễn Minh Tiến (2008)
Có hay không một tình trạng gọi là "đa nhân cách"?
Trong số các rối loạn tâm thần hiếm gặp và
thu hút sự quan tâm nhiều nhất, có một tình trạng được gọi tên là rối loạn phân
ly (dissociative disorders). Người bị rối loạn ấy có thể trải qua tình trạng đột
ngột bị mất trí nhớ hoặc tự nhiên thay đổi hẳn về mặt bản sắc (identity). Con
người thường “tự phân ly bản thân mình” khi đứng trước một hoàn cảnh gây stress
quá sức chịu đựng. Khi đó ý thức của người đó sẽ được cách ly với những gì đau
thương nhất, cả trong ký ức, suy nghĩ và cảm xúc (Cách lý giải này thừa nhận sự
tồn tại của những ký ức bị dồn nén, nghĩa là thừa nhận sự tồn tại của vô thức).
Một số triệu chứng của tình trạng phân ly thực
sự không phải là hiếm gặp. Đó đây vẫn có nhiều người có cảm nhận về bản thân
mình như là không có thực, hoặc cảm giác về tâm trí mình bị tách rời khỏi thân
thể, hoặc có người tự quan sát bản thân mình như một nhân vật trong một cuốn
phim... Một người có thể lên xe và đi đến một nơi nào đó không định trước trong
khi đầu óc thì hoàn toàn nghĩ đến một nơi khác. Khi đương đầu với một sang chấn,
một sự phân tách như thế có thể thực sự giúp bảo vệ cho đương sự tránh khỏi
tình trạng bị tràn ngập bởi các xúc cảm. Chỉ khi những trải nghiệm như thế có
tính chất nghiêm trọng và kéo dài thì người ta mới gọi đó là rối loạn phân ly.
Đặc biệt nhất trong số các rối loạn phân ly
là tình trạng có tên rối loạn bản sắc phân ly (dissociative identity disorder),
trong đó có sự phân ly toàn bộ bản ngã ra khỏi phần ý thức thường ngày của
đương sự. Những người này được cho là có từ hai hoặc nhiều hơn hai “nhân thân”
khác nhau (tức các phần nhân cách có bản sắc khác nhau) mà các phần này luân
phiên nhau kiểm soát các hành vi của đương sự. Những người bị chứng rối loạn
này có thể lúc này thì nghiêm túc và chuẩn mực, nhưng lúc khác thì lại nhí nhố,
lăng nhăng. Mỗi một nhân cách sẽ có tác phong và ngôn phong riêng của nó, và một
cách đặc trưng thì nhân cách gốc ban đầu sẽ chối bỏ không thừa nhận những nhân
cách khác đang cùng tồn tại.
Mặc dù những người được chẩn đoán là đa nhân
cách (multiple personalities) thường không có hành vi bạo lực, nhưng cũng có những
trường hợp được báo cáo trong đó đương sự bị phân ly thành hai nhân cách “tốt”
và “xấu” (hung hăng) – giống như nhân vật bị phân tách làm hai Tiến sĩ Jekyll
và Ông Hyde trứ danh trong câu truyện của Robert Louis Stevenson. Freud hẳn
cũng sẽ cho rằng khi loại bỏ được sự nhận biết có ý thức của phần nhân cách ban
đầu vốn là “tốt”, phần nhân cách thứ hai với tính chất “xấu” sẽ tự do phóng
thích các xung năng mà trước đó đã bị ý thức cấm cản. Sự diễn giải này dường
như phù hợp với Kenneth Bianchi, một con người bất thường đã bị đưa ra tòa như
một kẻ chuyên gây án theo kiểu “bóp cổ trên sườn đồi”, kẻ đã từng cưỡng bức và
giết chết mười phụ nữ ở bang California, Hoa Kỳ. Trong một buổi thực hiện thôi
miên cho Bianchi, nhà tâm lý John Watkins (1984) đã “gọi được” một nhân cách
đang bị ẩn giấu của anh ta: Tôi đã nói chuyện một ít với Ken, nhưng tôi nghĩ rằng
có thể đã có một phần khác của Ken mà tôi đã không thể nói chuyện được, một phần
được cảm nhận như có chút gì đó hơi khác với cái phần mà tôi đã nói chuyện...
Khi tôi hỏi ‘‘Anh nói chuyện với tôi chứ?” Bianchi trả lời “Vâng”, nhưng sau đó
tự nhận tên mình là “Steve”.
Khi nói chuyện như là một người tên Steve,
Bianchi đã nói anh ta (Steve) ghét Ken (cũng chính là Bianchi), bởi vì Ken là
người tốt, còn Steve với sự trợ giúp của một người bà con mới chính là kẻ đã giết
chết những phụ nữ. Steve cũng cho rằng Ken chẳng biết gì về sự hiện diện của
Steve cả và Ken vô tội không phải là kẻ giết người. Liệu rằng cái nhân cách thứ
hai của Bianchi có phải là một trò bịp bợm và chạy tội cho những hành động của
anh ta hay không? Câu trả lời là “Đúng”. Bianchi, một “chuyên gia nói dối”, một
người đã từng đọc các sách tâm lý học viết về đề tài đa nhân cách, và anh ta
sau đó đã bị kết án.
Trong khi khảo sát khả năng của con người
trong việc chuyển đổi nhân cách, Nicholas Spanos (1986, 1994, 1996) đã yêu cầu
một số sinh viên đại học giả định là họ đang bị kết tội là kẻ sát nhân và đang
được khám xét bởi một bác sĩ tâm thần. Khi những sinh viên ấy được trải qua sự
thôi miên tương tự như cách đã làm với Bianchi, hầu hết trong họ đều tự nhiên
thể hiện ra một nhân cách thứ hai. Khám phá này khiến cho Spanos đặt câu hỏi:
Phải chăng những “bản sắc” (identity) khác nhau là những phiên bản “cực đoan”
hơn của những khả năng bình thường ở con người trong việc thay đổi những cái
“ngã” khác nhau mà chúng ta vẫn thường thể hiện – chẳng hạn như ta vẫn thường
thể hiện cái tính cách “ngông nghênh”, “quậy phá” khi bù khú với bạn bè, trong
khi đó lại thể hiện một cách ngã rất dịu dàng, tôn kính khi ở cạnh ông bà, cha
mẹ? Liệu rằng những nhà lâm sàng đã phát hiện ra tình trạng đa nhân cách chỉ vì
họ đã kích hoạt khả năng diễn xuất một vai trò nào đó ở những người có xu hướng
hay huyễn tưởng (fantasy-prone)? Nếu điều ấy đúng, liệu những người này sau đó
có tự thừa nhận rằng thực sự họ chỉ diễn xuất các vai trò của chính họ mà thôi?
Họ có giống như các diễn viên không, vì những người này vẫn có lúc thấy mình “tự
đánh mất bản thân” trong các vai diễn?
Những tác giả nào công nhận tình trạng bản sắc
bị phân ly (dissociative identity) thực sự là một rối loạn có thể tìm thấy những
bằng chứng hỗ trợ cho quan điểm của họ trong các trạng thái hoạt động của não bộ
và cơ thể trong những nhân cách khác nhau (Putnam, 1991). Khuynh hướng hoạt động
bằng một tay (handedness) đôi khi cũng làm chuyển đổi nhân cách (Henninger,
1992). Những ký ức mơ màng về những trải nghiệm của nhân cách này đôi khi không
thể chuyển sang cho một nhân cách khác (Eich, 1997). Trong một nghiên cứu của một
số bác sĩ nhãn khoa, người ta nhận thấy rằng sự tinh tế về thị lực và sự cân bằng
hoạt động của các cơ vận nhãn có thể bị thay đổi khi người bệnh bị chuyển đổi
nhân cách. Những thay đổi này không xảy ra trong số những đối tượng nghiên cứu
thuộc nhóm đối chứng đang cố giả vờ có tình trạng đa nhân cách (Miller, 1991).
Những người hoài nghi thì vẫn có những nghi
ngờ về việc tình trạng đa nhân cách đã trở nên phổ biến hơn trong thời gian cuối
thế kỷ 20. Ở khu vực Bắc Mỹ, số lượng các trường hợp được chẩn đoán từ khoảng 2
ca mỗi thập niên (trong khoảng thời gian 1930-1960) tăng lên đến 20.000 trường
hợp chỉ trong thập niên 1980 (McHugh, 1995a). Số lượng các nhân cách được thể
hiện cũng tăng vọt từ 3 lên đến 12 nhân cách trên mỗi bệnh nhân (Goff &
Sims, 1993). Bằng cách nào mà một loại rối loạn rất có ấn tượng như thế lại có
thể trải qua một thời gian dài không được chú ý đầy đủ như vậy? Liệu sự gia
tăng đột biến các ca được chẩn đoán có phải là do ảnh hưởng bởi các sách vở và
phim ảnh về trạng thái đa nhân cách đã được phát hành trong thời gian đó? Trong
khi đó ở khu vực Nam Mỹ, nhiều thầy thuốc lâm sàng đã chẳng hề gặp phải một trường
hợp phân ly bản sắc nào và rối loạn này hầu như được xem là không tồn tại, mặc
dù ở một số nước, có một số người đã được cho là “sở hữu” thêm một “tinh thần lạ”
(alien spirit) (Altridge-Morris, 1989; Kuft, 1991). Ở Anh, chẩn đoán đa nhân
cách được xem là hiếm và là một “thói dở hơi theo kiểu Mỹ” (a wacky American
fad) (Cohen, 1995). Tại Ấn Độ và Nhật Bản, rối loạn này được xem là không tồn tại.
Đối với những người hoài nghi, những phát hiện
này cho thấy đây là một hiện tượng có tính văn hóa – nghĩa là một loại rối loạn
được tạo dựng nên bởi các nhà trị liệu trong một bối cảnh xã hội đặc thù nào đó
(Merskey, 1992). Những bệnh nhân khi tham gia vào việc trị liệu đã không thể
nói rằng “Cho phép tôi tự giới thiệu về bản thân mình”, mà thay vì vậy, những
nhà trị liệu đã “thả câu” (go fishing) để tìm kiếm tình trạng đa nhân cách
thông qua những câu hỏi như “Bạn có bao giờ cảm thấy một thành phần khác trong
con người bạn làm những điều mà bạn không thể kiểm soát được? Thành phần này của
bạn có một tên gọi riêng không? Liệu tôi có thể nói chuyện với với cái con người
đang giận dữ bên trong bạn không?” Một khi bệnh nhân cho phép nhà trị liệu nói
chuyện, bằng tên riêng, với “con người đang nói ra những điều giận dữ ấy bên
trong bệnh nhân” thì bệnh nhân sẽ bắt đầu thể hiện cái huyễn tưởng ấy ra bên
ngoài thông qua những hành động của họ (acting out the fantasy). Kết quả có thể
dẫn đến một hiện tượng có thật là bệnh nhân có thể trải nghiệm về bản thân mình
với một bản ngã hoàn toàn khác. Tuy nhiên, những người hoài nghi nói rằng cũng
chẳng phải là điều trùng hợp khi mà các nghiên cứu về đa nhân cách đã bắt đầu
được thực hiện bởi những nhà thực hành thôi miên và rằng các triệu chứng thường
thể hiện ngoạn mục nhất sau khi bắt đầu trị liệu (Goff, 1993; Piper, 1998).
Trong rối loạn phân ly cũng như các rối loạn
lo âu, cả trường phái phân tâm lẫn những người theo lý thuyết học tập (learning
perspective) đều cho rằng các triệu chứng là những cách thức mà đương sự sử dụng
để đương đầu với sự lo âu. Các nhà phân tâm xem triệu chứng như là cơ chế phòng
vệ chống lại lo âu gây ra bởi sự tuôn trào của các xung năng không thể chấp nhận
được. Các tác giả theo lý thuyết học tập lại xem chúng như những hành vi được củng
cố bằng hiệu quả làm giảm lo âu của chúng.
Một số tác giả khác xem rối loạn phân ly như
là các rối loạn sau sang chấn tâm lý (post-traumatic disorders) – một cách thức
đáp ứng tự nhiên và có tính bảo vệ đối với “lịch sử các sang chấn thời thơ ấu”
(Putnam, 1995). Các nhà nghiên cứu vẫn còn đang tranh luận về việc liệu những bệnh
nhân có rối loạn bản sắc phân ly đã từng có tình trạng bị xâm hại về thể chất,
tình dục hoặc tinh thần lúc thơ ấu hay không (Greaves, 1996; Lilienfeld, 1999).
Một cuộc nghiên cứu trên 12 kẻ sát nhân được chẩn đoán là có rối loạn bản sắc
phân ly đã cho thấy có 11 trường hợp trong số đó đã từng bị xâm hại nghiêm trọng
lúc còn nhỏ (Lewis, 1997). Một trường hợp đã bị cha mẹ của mình châm lửa đốt; một
trường hợp khác đã từng bị sử dụng vào những trò chơi khiêu dâm trẻ em và đã từng
hoảng sợ khi bị đặt ngồi lên một bếp lò đang cháy. Khi ấy, tình trạng đa nhân
cách có thể là sự cố gắng một cách tuyệt vọng của những nạn nhân muốn lẫn trốn
vào bên trong (to flee inward).
Nhưng những người hoài nghi lại thắc mắc thế
thì tại sao những trẻ em sống sót từ các cuộc thảm sát người Do Thái, từ các trại
tập trung phát xít và chứng kiến cha mẹ bị giết hại lại không phát sinh các chứng
rối loạn bản sắc phân ly? Liệu rối loạn này có phải đã được tạo nên bởi những
người có xu hướng huyễn tưởng và dễ thay đổi về cảm xúc hay là đã được tạo dựng
nên từ trong các tương tác giữa bệnh nhân và nhà trị liệu? Nếu thế, sẽ không có
sự cảm thông nào trong phán xét của lịch sử. Chuyên gia tâm thần học Paul
McHugh (1995b) tiên đoán rằng “trận dịch này” sẽ chấm dứt theo cách thức mà
thói đam mê trò phù thủy đã kết thúc ở Salem. Hiện tượng đa nhân cách sẽ được
xem như một sản phẩm nhân tạo và cách giải thích về một “ký ức bị dồn nén” là một
điều sai lầm, còn các bác sĩ tâm thần sẽ không còn áp dụng những phương pháp thực
hành dễ tạo ra những chứng bệnh không thật như thế nữa...
Con cảm ơn thầy và Trăng Non đã chia sẻ một bài viết rất hay ạ.
Trả lờiXóa