Thứ Ba, 24 tháng 8, 2021

TẠI SAO “CÁC THẦY CHỮA” CÓ VẤN ĐỀ - Phần 2

“Why Shrinks Have Problems”

Tác giả: ROBERT EPSTEIN Ph.D. và TIM BOWER

Nguồn: Psychology Today - published July 1, 1997 - last reviewed on June 9, 2016

Người dịch: TRẦN THỊ THU VÂN – Thạc sĩ Tâm lý, Giảng viên Bộ môn Tâm lý, Khoa KHXHNV ĐH Văn Hiến Tp.HCM, Chuyên viên Tâm lý trị liệu, Thành viên CLB Trăng Non


Kỳ 2

Một thứ thế giới thô phàm ngoài kia (It's a Rough World Out There)

Những bệnh nhân không chỉ là nguồn gây stress duy nhất đối với nhà tâm lý trị liệu. Chính thế giới này cũng đòi hỏi quá khắt khe. Sau tất cả, đó là lý do tại sao có những bệnh nhân…

Nhiều khảo sát, được thực hiện bởi Guy và những người khác, cho thấy một vài số liệu đáng lo ngại về cuộc sống và sự an lạc của nhà trị liệu. Ít nhất ¾ nhà trị liệu từng trải qua những đau khổ lớn trong vòng 3 năm trước khi khảo sát, nguyên nhân chủ yếu là những vấn đề trong các mối quan hệ. Hơn 60% có thể từng bị chứng trầm cảm với mức độ đáng kể về mặt lâm sàng vào một thời điểm nào đó trong đời và gần một nửa tự nhận rằng trong những tuần tiếp theo sau một khủng hoảng cá nhân, họ không thể cung cấp dịch vụ chăm sóc có chất lượng. Một nghiên cứu năm 1997 của Michael Klag, một bác sĩ tâm thần, cho thấy tỷ lệ ly hôn của bác sĩ tâm thần tốt nghiệp từ trường Đại học Y khoa Johns Hopkins, từ 1948 – 1964 là 51%, - cao hơn dân số chung của thời đó, và về thực chất tỷ lệ này cao hơn bất kỳ chuyên khoa nào trong y khoa.

Những ngày tháng đó nhà trị liệu đương đầu với một nguồn gây stress chính: Các cơ quan bảo vệ sức khoẻ (HMOs - Health Maintenance Organizations). Tiến sĩ Richard Kilburg, giám đốc cấp cao về nguồn nhân lực tại Đại học Johns Hopkins và là một trong những chuyên gia hàng đầu về “những nhà tâm lý đau khổ” (distressed psychologists) nói rằng làm việc cho những chương trình “chăm sóc có quản lý” (managed care) đang tạo ra một tác động rất xấu (đến đời sống của những chuyên viên – ND): “Những nhà trị liệu thường xuyên phải lo lắng. Việc kiếm sống ngày càng khó khăn và càng khó khăn hơn để có thể cung cấp dịch vụ chăm sóc có chất lượng. Công việc giấy tờ đòi hỏi rất nhiều thứ. Ngày nay bạn không thể có một cuộc gặp gỡ với nhà tâm lý thực hành mà không gặp phải những vấn đề ngày càng gia tang này, và mức độ đau khổ cũng đang gia tăng. Một số đồng nghiệp của tôi đã phải rời khỏi việc hành nghề.”

Tiến sĩ Richard Thereson, Đại học Missouri, đã ước lượng có khoảng 10% các nhà tâm lý trị liệu đang có những đau khổ đáng kể ở bất kỳ thời điểm cụ thể nào.

Giải pháp sau cùng (The Final Resolution)

Bruno Bettelheim. Paul Federn. Wilhelm Stekel. Victor Tausk. Lawrence Kohlberg. Có lẽ bạn sẽ nhận ra một hoặc hai trong số những cái tên này. Tất cả họ là những chuyên gia sức khỏe tâm thần nổi tiếng, và giống như Freud, họ đã tự sát.

Tất cả những căng thẳng trong công việc và cuộc sống hàng ngày thường khiến các chuyên gia sức khỏe tâm thần đi theo con đường này. Theo tiến sĩ tâm lý David Laster, giám đốc trung tâm nghiên cứu về tự sát (Center for the Study of Suicide), các chuyên gia sức khỏe tâm thần có tỷ lệ tự sát cao bất thường. Thật vậy, những báo cáo được công bố về tỷ lệ tự sát ở bác sĩ tâm thần rất cao, dẫn đến việc Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ (American Psychiatric Association) phải hình thành một “lực lượng đặc nhiệm về ngăn ngừa tự sát (Task Force on Suicide Prevention) vào cuối thập niên 1970. Một nghiên cứu được lực lượng đặc nhiệm này khởi xướng, công bố năm 1980, đã kết luận rằng “tỷ lệ tự sát ở bác sĩ tâm thần gấp đôi con số được trông đợi (của giới bác sĩ y khoa)" và “sự xuất hiện các trường hợp tự sát ở bác sĩ tâm thần khá hằng định qua các năm, cho thấy thường xuyên có rất nhiều bác sĩ tâm thần bị trầm cảm”. Những lĩnh vực y khoa khác không có tỷ lệ tự sát cao.

Theo một nghiên cứu, cứ 4 nhà tâm lý thì có 1 người đôi khi có cảm nhận muốn tự sát và cứ 16 người thì có 1 người đã có mưu toan tự sát (attempted suicide). Dữ liệu được công bố duy nhất – đến nay đã 25 năm qua – về số ca tự sát thật sự trong giới tâm lý gia cho thấy tỷ lệ tự sát ở những nhà tâm lý nữ cao gấp ba lần so với dân số chung, mặc dù tỷ lệ này ở nhà tâm lý nam giới không cao hơn mức trông đợi tính theo ngẫu nhiên.

Lester nói rằng những nghiên cứu sâu thêm về chủ đề tự sát ở những tâm lý gia rất khó thực hiện, phần lớn là vì tổ chức chuyên môn chính dành của những nhà tâm lý, tức Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (American Psychology Association – APA) đã không cung cấp bất kỳ dữ liệu xác đáng nào kể từ năm 1970. Tại sao? “APA không muốn bất kỳ ai biết rằng có những nhà tâm lý bị đau khổ”. Tiến sĩ tâm lý Peter Nathan, Đại học Iowa và là cựu thành viên của Uỷ ban về Những Nhà Tâm lý “đau khổ” của APA, đã khẳng định như vậy

Rượu và nghiện (Alcohol and Addiction)

Đợi đã, còn nhiều điều hơn thế nữa. Nathan còn phát biểu: “Chuyên gia sức khỏe tâm thần có lẽ có nguy cơ cao không chỉ về nghiện rượu mà còn (tất cả các thể loại) lạm dụng chất khác”. Không có gì đáng ngạc nhiên: lạm dụng chất là một trong những cách thông dụng nhất – mặc dù gây hủy hoại – để con người đương đầu với lo âu và trầm cảm và như chúng ta từng thấy, chuyên gia sức khỏe tâm thần cũng góp phần của họ vào cách thức này.

Trên thực tế, nghiên cứu hàng thập kỷ của Richard Thoreson về nghiện rượu đã bắt nguồn từ những vấn đề của chính ông với những chai rượu. “Tôi bắt đầu uống khi còn khá trẻ.” ông nói “và vẫn tiếp tục uống trong những năm đầu hành nghề của mình. Cuộc sống của tôi chỉ lẩn quẩn xung quanh việc uống rượu. Nó ảnh hưởng tiêu cực lên gia đình tôi. Đến mức tôi phải từ nhiệm vai trò chủ tịch của một tổ chức nọ bởi vì tôi quá run không thể nói chuyện trước một nhóm người. Tôi ngừng uống vào năm 1969, thời điểm đó tôi uống khoảng 16 ounces (tương đương 178ml) whiskey mỗi ngày.

Vào những năm 1970, với sự giúp đỡ của một vài đồng nghiệp, Thoreson thành lập một nhóm không chính thức có tên là “Tâm lý gia giúp nhau” (Psychologists helping Psychologists), đã tổ chức những cuộc họp mở của Những Người Nghiện rượu Ẩn danh (Alcoholics Anonymous) tại những hội nghị hằng năm của APA từ đó về sau. Nhóm không chính thức và hoàn toàn tình nguyện này đã giúp đỡ cho hàng trăm tâm lý gia trong nhiều năm qua – không có sự hỗ trợ tài chính nào từ APA.

Nghiện trị liệu (addicted to therapy)

James Guy nói rằng “một số nhà trị liệu trông mong được tiếp tục thực hành lâu hơn tuổi thọ trung bình tính trên những bảng biểu thống kê.” Nhưng khi tuổi càng cao, sức khoẻ hẳn sẽ phải giảm sút. Guy giải thích: “Đau thắt lưng trở thành một vấn đề. Suy giảm thị lực và thính lực có thể gây khó khăn trong việc nhận ra những sắc thái tinh tế. Kiểm soát bàng quang kém có thể khó khăn khi ngồi và trình trạng mệt mỏi sẽ trở thành chuyện lớn”

Những vấn đề phức tạp thêm vào đó là khi nhà trị liệu càng lớn tuổi, họ càng có nhu cầu gắn bó và sự hỗ trợ xã hội thực sự đến từ chính bệnh nhân của họ. “Thường thì hầu hết thời gian tỉnh thức của họ là dành để làm việc cùng thân chủ, tập trung vào những chất liệu chất chứa đầy cảm xúc”, Guy lưu ý, “Chính những lúc như thế, thật khó để họ có thể nghĩ đến chuyện về hưu. Thậm chí rất khó để họ biết khi nào thì nên nghỉ.

Kết quả là, nhiều nhà tâm lý trị liệu “nghiện” thân chủ của họ đến mức đáng thương (woefully addicted to their clients), không ai cung cấp cho họ những hướng dẫn hoặc sự lựa chọn thay thế. Nhìn chung, việc hành nghề tư nhân độc lập – thường phải ra khỏi nhà mình – đặt nhà trị liệu vào nguy cơ cao nhất, bất kể họ ở độ tuổi nào. Thereson nói thêm rằng những cách hành nghề như vậy có sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhà trị liệu không muốn các đồng nghiệp nhìn thấy; hành nghề biệt lập cũng là cách lý tưởng cho những người lạm dụng rượu hoặc ma túy.

Liệu họ đã sử dụng công cụ của chính họ? (Do they use their own tools?)

Nếu nhà trị liệu thật sự có công cụ đặc biệt để giúp đỡ người khác, sao họ không thể sử dụng những kỹ thuật này cho chính mình? Sau tất cả, nhà tâm lý học hành vi gần đây, B.F Skinner đã áp dụng nguyên tắc hành vi một cách có hệ thống để thay đổi hành vi của mình và ông ấy nhạo báng Freud và những phân tâm gia về việc họ đã không thể ứng dụng “khoa học” của họ cho chính họ. Tiến sĩ tâm lý John Norcross, Đại học Scranton, và cộng sự đã nghiên cứu vấn đề này một cách rộng rãi, với hai phát hiện chính. Đầu tiên là “Những nhà trị liệu thừa nhận việc họ có những đau khổ và khó khăn trong cuộc sống cũng nhiều như những người ngoài chuyên môn, nhưng họ cũng tự cho mình có những ứng phó tốt hơn. Họ ít dựa vào thuốc hướng thần và sử dụng một loạt nhiều kiểu quá trình tự thay đổi (self-change) hơn so với những người ngoài chuyên môn.”

Điều này nghe có vẻ khích lệ, nhưng phát hiện thứ hai của Norcross khiến bạn dừng lại và suy nghĩ: “khi những nhà trị liệu hỗ trợ bệnh nhân, họ theo những chỉ dẫn trong định hướng lý thuyết của họ. Nhưng điều ngạc nhiên là khi những nhà trị liệu hỗ trợ chính mình, họ lại trở nên rất thực dụng.” Nói cách khác, khi vật lộn với vấn đề của chính mình nhà trị liệu bỏ qua những gì thuộc về tâm lý và trở lại với những kỹ thuật thông thường hàng ngày – tán gẫu với bạn bè, thiền định, tắm nước nóng…

Sao những nhà tâm lý trị liệu, vào những lúc nào khác trong cuộc đời hành nghề, lại không yêu cầu được trị liệu để họ có thể được giúp đỡ chuyên biệt từ đồng nghiệp? Đã không có chuyện đó! Tiến sĩ Gary Schoener đã nói, “Người ta bị shock khi biết điều này không xảy ra”. Ông cũng là người điều hành Trung tâm Tham vấn Walk-in ở Minneapolis, có lẽ là phòng khám tâm lý miễn phí đầu tiên và cũng là sau cùng ở Hoa Kỳ. Ông nói “các luật sư là đối tượng của việc tầm soát về tâm lý nhiều hơn chính các nhà tâm lý.”

Những khảo sát đã chỉ ra rằng hầu hết nhà trị liệu, khoảng 65-80%, đã từng phải trị liệu ở một thời điểm nào đó. Tuy nhiên, ngoại trừ những nhà phân tâm – những hậu duệ theo truyền thống và sang giá của Freud mà bạn nhìn thấy trên phim nhiều hơn ngoài đời - những nhà trị liệu thực sự đã không bao giờ đề nghị trải qua trị liệu, ngay cả khi đó là một phần trong huấn luyện của họ.

Chính Freud bị kinh hoàng bởi điều này. Ông ấy nói: “Theo định kỳ 5 năm hoặc hơn, các nhà phân tâm nên tự phân tâm cho mình”. Không may và trớ trêu thay, nhiều nhà tâm lý trị liệu miễn cưỡng tìm đến trị liệu (cho chính mình). Chẳng hạn, trong một khảo sát được thực hiện bởi Guy và tiến sĩ Jame Liaboe, những nhà trị liệu đã nói rằng họ rất lưỡng lự khi bước vào trị liệu “bởi vì cảm thấy xấu hổ và bẽ bàng, nghi ngờ về hiệu quả của trị liệu, những trải nghiệm tiêu cực trước đây với trị liệu cá nhân cho họ (personal therapy: cách dùng từ này chỉ việc trị liệu cho nhà trị liệu hoặc cho người đang học tâm lý trị liệu - ND) và những cảm nhận tự cao đã gây cản trở khả năng xác định nhu cầu hỗ trợ của chính mình.” Những người khác thì lưỡng lự khi tìm kiếm nhà trị liệu bởi vì “những chuyện phức tạp của nghề nghiệp” - đó là họ không thể tìm một nhà trị liệu gần đó, người mà họ chưa từng biết trước đó. Hoặc họ cũng lầm tin, giống như nhiều bệnh nhân cũng tin như thế, rằng tìm đến nhà trị liệu là một dấu hiệu của sự thất bại.

Tiến sĩ tâm lý học Karen Saakvitne nói rằng: “Tôi xin lỗi khi ngụ ý về những nhà trị liệu tìm đến trị liệu là những người bị khó khăn (Nguyên văn “impaired” nghĩa là suy yếu, yếu kém). Họ là một người có làm việc vì những lợi ích tốt nhất của thân chủ. Tôi chỉ quan ngại nhiều hơn về những nhà trị liệu không tìm kiếm sự giúp đỡ.”

Đón xem tiếp Phần 3


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HAI LOẠI HIỆU ỨNG: WERTHER VS PAPAGENO

The Two Effects: Werther vs Papageno Nguồn: Please Live Blog  - 2014   Người viết: ALEXA MOODY Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN ALEXA MOO...