Tựa đầy đủ: Giải độc Xã hội và Ẩn cư: Một mình, Cô đơn hay “Ẩn cư bất toại”?
“Social Detoxing and Solitude: Alone, Lonely, or Aloneliness?”
Tác giả: ADITYA SHUKLA – Tâm lý gia Ấn Độ
Nguồn: Cognition Today - September 13, 2020
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
Các thuật ngữ chính
Cô đơn (loneliness): Cảm giác nảy sinh do nhu cầu về mặt xã
hội không được đáp ứng, cảm nhận thuộc về và gắn bó giảm thấp. Đây không phải
là một sự lựa chọn.
Ở một mình hoặc ẩn cư (alone-time/Solitude): Trạng thái rời
xa người khác mà không có quá nhiều cảm xúc tiêu cực. Đây là một sự lựa chọn.
Khái niệm thứ ba chúng tôi tạm dịch là “ẩn cư bất toại” (Aloneliness):
Hiểu theo nghĩa là một nhu cầu ẩn cư (solitude) không được thoả, không được như
ý, kèm theo với một sự khập khiễng, không ăn khớp giữa thời gian thực dành để ở
một mình và nhu cầu cần ở một mình.
Xem lại Phần 1
Phần
2
Động lực (motivation) đóng một vai trò quan
trọng trong việc làm thế nào để thời gian ở một mình có thể hữu ích cho cuộc sống.
Một nghiên cứu cố gắng đi sâu về khía cạnh động lực đã xác nhận một sự thấu hiểu
mang tính trực quan đó là nếu sự cô độc được thực hiện có chủ đích thì sẽ có
tác dụng tốt, còn nếu bị ép buộc thì sẽ cho hệ quả xấu. Đối với vị thành niên
(10-18 tuổi) và người trưởng thành còn trẻ (18-25 tuổi), việc tìm kiếm sự cô độc
vì lý do bên ngoài thì thường kèm theo trạng thái lo âu xã hội (social anxiety),
trầm cảm và cô đơn, nhưng nếu việc tìm kiếm cơ hội để ở một mình, vì lý do tự
xác định nội tại, thì lại đi kèm với việc tinh thần sẽ được cải thiện. Khi người
ta biện minh cho sự cô độc và rút lui khỏi xã hội vì họ không có lựa chọn nào
khác hoặc họ không hài lòng với các lựa chọn của mình, khi ấy thời gian ở một
mình có thể trở thành sự cô đơn. Và khi mọi người đi du lịch một mình hoặc ra
ngoài để giải tỏa tâm trí vì họ muốn, thời gian ở một mình có thể có tác động
tích cực đến sức khỏe tâm thần.
Những người lớn tuổi thường có nguy cơ bị cô
lập hoàn toàn với xã hội. Trong một nghiên cứu chiều dọc kéo dài 6 ngày (6-day
longitudinal study), trong đó chỉ dành ra 11% thời gian tỉnh thức tích cực cho
sự cô độc (ý chỉ thời gian ở một mình, chứ không phải cô đơn), các nhà nghiên cứu
đã báo cáo về một mối liên hệ giữa chất lượng của các tương tác xã hội và cảm
xúc. Đối với những ai có những tương tác xã hội không vui và chứa đầy xung đột,
thì sự cô độc sẽ làm giảm cường độ của những cảm xúc tiêu cực đó. Theo các nhà
nghiên cứu, sự cô độc (solitude) có mối liên hệ bao quát với những cảm xúc có
cường độ thấp hơn – cả tích cực cũng như tiêu cực.
Những sinh viên đại học nào không có cảm nhận
được thuộc về thì có thể được hưởng lợi từ sự cô độc nếu họ tự giác tìm kiếm thời
gian ở một mình. Một nghiên cứu chiều dọc ngắn hạn thực hiện trên các sinh viên
Canada và Mỹ cho thấy rằng thời gian ở một mình có động cơ nội tại (intrinsically
motivated alone-time) có liên quan đến lòng tự trọng cao, cảm giác liên quan
nhiều hơn và ít cô đơn hơn. Kết quả nghiên cứu của họ cũng cho thấy tác động
tích cực của thời gian ở một mình (solitary time) rõ ràng hơn đối với những
sinh viên được cha mẹ tán thành và khuyến khích sự độc lập. Điều này ủng hộ ý
tưởng cho rằng việc dành thời gian ở một mình và muốn ở một mình không nhất thiết
là biểu thị cho các vấn đề sức khỏe tâm thần.
Một hiện tượng tương đối ít được nghiên cứu
và mới được hình thành về mặt khái niệm đó là “sự ẩn cư bất toại” (Aloneliness)
– một cảm nhận tiêu cực về việc không dành đủ thời gian cho bản thân. Ẩn cư bất
toại đi kèm với một mong muốn cô độc nhưng chưa được đáp ứng (an unmet want of
solitude) - Một sự bất mãn về lượng thời gian được dành để ở một mình. Đó là những
người có ý định và động cơ để dành thời gian có chất lượng cho bản thân, nhưng
những lý do bên ngoài thường tạo cản trở nên gây khó khăn cho việc sống với thời
gian của riêng mình (difficult to act on me-time). Trong một loạt bốn nghiên cứu,
các nhà nghiên cứu đã thiết lập khái niệm mới này như một lời giải thích khả dĩ
cho việc cô độc/ẩn cư (solitude) có ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và hạnh
phúc như thế nào.
Trong khi sự cô đơn (loneliness) được hiểu là
sự bất mãn về mặt xã hội (social dissatisfaction), thì “ẩn cư bất toại” (aloneliness) được hiểu là một trạng
thái “bất mãn phi xã hội” (asocial
dissatisfaction) - một hình ảnh phản chiếu của sự cô đơn. Đó là sự không phù hợp
giữa ý định dành thời gian để ở một mình và sự hài lòng về thời gian thực sự ở
một mình. Nói thực tế ra, đó là sự khác biệt giữa mức độ ẩn cư mà bạn muốn và mức
độ bạn cảm thấy bạn đang nhận được nó (difference between how much solitude you
want and how much you feel you are getting it). Đó là sự khác biệt giữa thời
gian thực sự và thời gian lý tưởng dành để ở một mình.
Ẩn cư bất toại được hình thành dựa trên cách
chúng ta nhận thức về thời gian đã được sử dụng của chúng ta. Đó là việc bạn cảm
thấy mình cần thời gian nhiều hơn hay ít hơn, chứ không phải là bạn có thể dùng
được một thời lượng cố định nào đó một cách khách quan hay không. Càng có nhiều
ý định và thời gian ở một mình lại không nhiều thì tình trạng ẩn cư bất toại càng
cao. Những người nhút nhát có thể cảm thấy sự bất toại này một cách cao độ nếu
mong muốn được ở một mình của họ không được đáp ứng và phải giao tiếp xã hội
trái với ý thích của họ. Nếu sở thích cô độc (solitude) càng nhiều thì càng có
thể làm tăng tình trạng ẩn cư bất toại (aloneliness) khi một người không hài
lòng với thời gian ở một mình và muốn có nhiều hơn nữa.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng mức độ ẩn
cư bất toại cao có liên quan vừa phải đến chứng trầm cảm bất kể họ dành thời
gian ở một mình nhiều hay ít. Ngay cả khi mức độ ẩn cư bất toại thấp và thời
gian ở một mình nhiều thì cũng có liên quan đến việc gia tăng các triệu chứng
trầm cảm. Phát hiện này phù hợp với cách hiểu nói chung rằng nếu bị bắt buộc phải
ở một mình, vượt quá khả năng của bạn, thì có nghĩa là sẽ bị cô đơn nhiều hơn -
một chỉ báo rõ ràng cho thấy sức khỏe tâm thần sút kém.
Sau cùng, nhu cầu dành thời gian ở một mình
vì những lý do tự thân là một cách thức chắc chắn để giảm stress. Nhưng khi các
khía cạnh của phong cách sống ảnh hưởng đến nhu cầu đó và nhu cầu đó không được
đáp ứng, thì lại có thể gây ra nhiều stress hơn. Quản lý tình trạng ẩn cư bất
toại có thể là một cách rất hữu ích để làm cho sự cô độc (solitude) trở nên có
hiệu quả với bạn. Việc bản thân tạo khoảng cách (distancing) để thoát khỏi sự choáng
lấp của xã hội nhằm tìm kiếm sự bình an và yên tĩnh là một chiến lược để giảm bớt
tình trạng ẩn cư bất toại từ mức độ cao và chuyển nó thành ẩn cư bất toại mức độ
thấp. Mức độ ẩn cư bất toại thấp đi song hành với sự hài lòng khi có đủ thời
gian ở một mình và là một dấu chỉ của hạnh phúc.
Các nhà nghiên cứu viện dẫn Giả thuyết
Goldilocks (Goldilocks Hypothesis) để giải thích những phát hiện của họ - có những
khác biệt giữa các cá nhân về mức độ tối ưu của việc nhận được “một thứ gì đó”
để thấy được những tác động tích cực của nó. Thời điểm mà mọi người cảm thấy
"điều này thật là hoàn hảo" thì có tính chủ quan. Ham muốn tình dục, tiệc
rượu xã giao, ngủ nghỉ, khoảng cách xã hội, ẩn cư, hẹn hò vv… tất cả đều phụ
thuộc vào nhu cầu, nhận thức và thực tế sống của mỗi cá nhân
Tương tác xã hội (và sự thiếu vắng chúng) có ảnh
hưởng trên cảm xúc theo một cách độc đáo khác. Các nhà nghiên cứu lập luận rằng
những tương tác xã hội tạo ra một cung phản hồi (feedback loop) với trạng thái
cảm xúc ban đầu, qua đó có thể khuếch đại những cảm xúc ấy khi chúng ta hòa nhập
với xã hội. Theo một cách nào đó, điều này giải thích tại sao sự cô độc (solitude)
làm giảm cường độ của cảm xúc – đó là do cơ chế phản hồi bị cắt đứt.
Khi nói đến giải độc mạng xã hội (social
media detox), những lợi ích khó có thể được kể ra một cách dễ dàng. Một nghiên
cứu được thực hiện trên 130 sinh viên đại học cho thấy rằng của việc kiêng sử dụng
mạng xã hội không có tác động đối với chất lượng đời sống. Điều này có tính
trái ngược với kết luận theo trực giác (counterintuitive) bởi vì xóa các ứng dụng
mạng xã hội thường là một chiến lược để tìm kiếm sự cô độc (solitude) và tạo
khoảng cách của bản thân với các khía cạnh xã hội giả tạo (pseudo-social
aspects). Tuy nhiên, trong thực nghiệm này, với việc kiêng sử dụng mạng xã hội được
kiểm tra trong tối đa 4 tuần, những người tham gia được yêu cầu hãy kiêng cữ để
phục vụ cho việc nghiên cứu. Theo những phát hiện trước đây, ý định tìm kiếm sự
cô độc của bản thân là yếu tố then chốt tạo nên những tác động tích cực của quá
trình cai nghiện (giải độc - detox). Khía cạnh cốt lõi này đã không được xét đến
ở đây (Ở đây, người tham gia nghiên cứu đã kiêng mạng xã hội theo yêu cầu của
nghiên cứu, không phải theo chủ ý của mình – Chú thích của ND). Vì vậy, có lẽ,
trừ khi một người thực sự có động cơ vì những lý do tự thân quyết định, việc
cai nghiện mạng xã hội có thể không ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và hạnh
phúc của họ.
Một loạt các yếu tố khác thúc đẩy hành vi sử
dụng mạng xã hội của chúng ta và nhiều khía cạnh của nó có hậu quả cả tích cực lẫn
tiêu cực đối với sức khỏe tâm thần. Đây là điểm khởi đầu để hiểu phương tiện
truyền thông xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần như thế nào và nó có thể áp
dụng như thế nào đối với sự cô đơn (loneliness), ẩn cư bất toại (aloneliness) và hành vi xã hội thụ động
(passive social behavior).
Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng những người tìm kiếm sự cô độc (solitude) vì những lý do tự thân sẽ trải nghiệm sự cải thiện về chất lượng sống. Đó là một phần quan trọng của hạnh phúc đối với những người nhạy cảm. Nhưng, sự cô độc do những nguyên nhân bên ngoài thì lại dẫn đến cô đơn. Thậm chí, nhu cầu về thời gian ở một mình không được đáp ứng (tức tình trạng ẩn cư bất toại - aloneliness) cũng có thể làm giảm hạnh phúc.
Một lưu ý có chút không liên quan, có một
phiên bản cực đoan của sự cô đơn, xa lánh xã hội và ẩn cư bất toại ở Nhật Bản -
đó là hội chứng Hikikomori – một sự
rút lui xã hội có chủ ý kéo dài đến mức bỏ việc và bỏ trường bằng cách nhốt
mình trong nhà. Hiện tượng văn hóa này thường thấy nhất ở nam giới người lớn, bỏ
học đại học. Một nghiên cứu cho thấy rằng việc trở thành Hikikomori có liên
quan mật thiết đến quá trình điều trị tâm thần trong quá khứ và một số triệu chứng
liên quan như hành vi ám ảnh, lo âu xã hội, lo âu trong những quan hệ liên cá
nhân và rối loạn điều hòa cảm xúc. Một nghiên cứu khác thì chỉ ra sự kém gắn bó
và phụ thuộc cảm xúc vào người khác. Cùng với những yếu tố đó, những yếu tố như
initial aloneliness và sự cô độc do bị ép buộc từ bên ngoài có thể góp phần vào
tình trạng này - Thời gian sẽ trả lời.
Tất
cả những điều được các nghiên cứu này chỉ ra để cần đến giải độc xã hội
1. Khi có cảm giác cô đơn và dành thời gian ở
một mình vì không có các lựa chọn tốt khác để thay thế, có liên quan đến sức khỏe
tâm thần kém
2. Khi thời gian ở một mình, đặc biệt là đối
với những người nhạy cảm cao, có thể cải thiện hạnh phúc và chất lượng cuộc sống
3. Có tình trạng ẩn cư bất toại - cảm giác
tiêu cực xuất hiện do không dành đủ thời gian ở một mình - là một yếu tố quan
trọng liên quan đến hạnh phúc
4. Có động lực nội tại để tìm kiếm sự cô độc
là cách mạnh mẽ nhất để việc giải độc xã hội có thể phát huy tác dụng
5. Khi thời gian ở một mình làm giảm cường độ
của cảm xúc tích cực và tiêu cực
Aditya
Shukla: Cảm ơn bạn đã đọc; hy vọng bạn thích bài viết. Tôi điều hành
Cognition Today để vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về tâm lý học. Mỗi bài báo
thường xuyên được cập nhật các kết quả nghiên cứu mới. Tôi là một nhà tâm lý học
ứng dụng từ Pune, Ấn Độ. Yêu thích khoa học viễn tưởng, truyền thông kinh dị;
Yêu thích nhạc rock, metal, synthwave và pop; không thể huýt sáo; có thể chơi
đàn ghi ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét