Nguồn: Essential Psychotherapies – 1995.
Tưởng nhớ cố BS NGUYỄN VĂN KHUÊ (1950 -2010)
Người đã tham gia dịch bài viết này năm 2008
Kỳ 1
DẪN
NHẬP
Trị liệu nhận thức đã thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà chuyên môn sức khỏe tâm thần ở khắp thế giới trong những năm gần đây.
Cuộc “cách mạng nhận thức” (Mahoney, 1977, 1991) được báo hiệu bởi cuộc hội thảo
về chủ đề xử lý thông tin được tổ chức ở viện kỹ thuật Massachusetts (MIT) và
việc xuất bản các công trình của hội thảo bởi các tác giả Bruner, Goodnow,
Austin (1956), Chomsky (1956, 1957), Kelly (1955), Newell và Simon (1956) đã
chín muồi, nhờ vậy các phương pháp trị liệu đặt nền tảng trên bình diện nhận thức
đã trở thành mối quan tâm ưu tiên của các nhà chuyên môn (Smith 1982). Phương
pháp trị liệu nhận thức đã trở thành chỗ đứng chung của các nhà trị liệu, của
các phương pháp lý thuyết và triết lý khác nhau, từ trường phái phân tâm đến
trường phái hành vi. Nhà trị liệu phân tâm tìm thấy trong trị liệu nhận thức một
cốt lõi lý thuyết tâm động (dynamic) để tham dự vào việc thay đổi các niềm tin
tiềm ẩn và các sơ đồ tương tác cá nhân. Nhà trị liệu hành vi tìm thấy trong trị
liệu nhận thức một mô hình tâm lý trị liệu ngắn gọn, tích cực, có hướng dẫn, có
tính cộng tác, có tính giáo dục, một mô hình tâm lý trị liệu dựa trên cơ sở
kinh nghiệm và có định hướng nhắm đến việc thay đổi hành vi trực tiếp. Sự hợp
nhất giữa trị liệu nhận thức và trị liệu hành vi đã trở thành quy luật hơn là
ngoại lệ. Các hiệp hội trị liệu hành vi trên thế giới đã thêm từ nhận thức vào
tên gọi của họ và tờ báo uy tín “Trị Liệu Hành Vi” giờ đây đã trở thành tờ báo
quốc tế ứng dụng các khoa học nhận thức và hành vi trong các vấn đề lâm sàng.
Các tư liệu về trị liệu nhận thức đã phát triển
theo cấp số nhân trong những thập kỷ qua. Có gốc rễ từ công trình của Aaron
Beck trong việc trị liệu trầm cảm (Beck, 1972, 1976), phương pháp trị liệu nhận
thức hiện đại đã trở thành mô hình được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực tâm lý
trị liệu và tâm bệnh học và đã được áp dụng trong nhiều vấn đề, các nhóm thân
chủ và các hoàn cảnh trị liệu khác nhau. Hiện nay có nhiều trung tâm trị liệu
nhận thức ở nhiều nơi trên thế giới như Buenos Aires, Stockholm và Thượng Hải.
Mô hình cơ bản đã được thích ứng ở nhiều nền văn hóa một cách dễ dàng. Các nhà
trị liệu ở Thụy Điển cũng như ở Trung Quốc xác định có những quan tâm và phát
triển trị liệu nhận thức như là một mô hình thích hợp với các đặc trưng của các
quốc gia này. Đây là một thực tế khá lý thú, vì đây là hai nước có nền văn hoá
rất khác nhau. Các cách tiếp cận nhận thức dường như được ứng dụng xuyên văn
hoá vì chúng tập trung vào diễn tiến và đặt nền tảng trên hiện tượng học
(phenomenologically based). Việc giúp đỡ các cá nhân phát triển khả năng xem
xét những niềm tin của mình (dù các niềm tin ấy có thể ở hình thức nào) dường
như có tính hữu dụng một cách xuyên văn hóa hơn là chỉ tập trung vào những nội
dung đặc thù nào đó. Mô hình này tôn trọng thực tế cho rằng những niềm tin tiềm
tàng đặc thù, có thể được chia sẻ bởi những người thuộc những nền văn hoá riêng
biệt và có sự khác biệt xuyên văn hoá đáng kể về những niềm tin này. Ví dụ, xã
hội Tây Phương tiêu biểu nhấn mạnh sự tự lập và thành đạt cá nhân, trong khi xã
hội Á Châu dường như tương đối nhấn mạnh sự kết hợp xã hội và trách nhiệm cá
nhân đối với gia đình và cộng đồng.
Trên đây là tóm tắt tổng quát các nền tảng lý
thuyết và lịch sử của trị liệu nhận thức và sau đây sẽ thảo luận các vấn đề
khái niệm và kỹ thuật đặc thù dẫn đến các chiến lược trị liệu khác nhau.
BỐI
CẢNH CỦA TRỊ LIỆU NHẬN THỨC
Trị liệu nhận thức bắt đầu từ truyền thống
trí tuệ của các triết gia khắc kỷ như Epictetus ở thế kỷ thứ I: “Những điều gì
làm cho người ta rối loạn không phải là do chính những điều này… mà là do sự
phán xét của chúng ta về những điều ấy. Do vậy, khi chúng ta bị phản đối, rối
loạn hay đau khổ, chúng ta đừng bao giờ lên án người khác, mà đúng hơn là nên
xem xét chính bản thân chúng ta, nghĩa là chính sự phán xét của chúng ta.”
Phương pháp tâm lý trị liệu nhận thức hiện đại
được thành lập trên khái niệm về “Tính kiến tạo về tâm lý” (psychological
constructivism). Michael Mahoney (1991) đã định nghĩa phương pháp trị liệu nhận
thức như là một tập hợp các lý thuyết về tâm trí và hoạt động tâm lý, trong đó
có những tính chất sau”:
1. Nhấn mạnh bản chất tích cực và tiên phong
của tri giác, học tập và kiến thức
2. Xác nhận tính ưu việt về cả cơ cấu lẫn chức
năng của những tiến trình trừu tượng và cụ thể trong tất cả kinh nghiệm thuộc
tri giác cũng như lý trí.
3. Xem việc học tập, hiểu biết và trí nhớ là
những hiện tượng phản ánh các cố gắng liên tục của cơ thể và tâm trí nhằm tổ chức
và tái tổ chức những khuôn mẫu hành động và trải nghiệm của cá thể. Những khuôn
mẫu ấy, dĩ nhiên, có liên quan đến khả năng dự phần một cách linh hoạt và thích
nghi cao của con người vào thế giới xung quanh.
Mô hình “nhận thức có tính kiến tạo”
(cognitive – constructivist model) của hành vi con người đã xuất hiện trong 10
năm gần đây rất khác xa với các lý thuyết phân tâm truyền thống khi cho rằng
hành vi không được coi là quyết định bởi các kinh nghiệm trong những năm đầu
tiên hoặc bị chi phối bởi các động lực vô thức.
Mô hình trị liệu nhận thức cũng khác với các
mô hình hành vi điều kiện hóa ở chỗ xem các phản ứng cảm xúc và hành vi của
chúng ta không đơn thuần là sản phẩm của các “tác nhân củng cố” hoặc các yếu tố
ảnh hưởng hiện nay từ môi trường; mà đúng hơn là hành vi của chúng ta được xem
là có mục đích, tích cực và thích ứng với môi trường. Lý thuyết về tính kiến tạo
(constructivism) khẳng định rằng con người không chỉ đơn thuần phản ứng lại với
các sự việc, mà đúng hơn con người rất chủ động phát triển các hệ thống ý nghĩa
của cá nhân và tổ chức những tương tác giữa bản thân mình với thế giới bên
ngoài. Các nhà lý thuyết nhận thức cho rằng kiến thức (cá nhân hoặc khoa học)
là có tính tương đối vì nó căn cứ trên các tiền đề cá nhân và văn hoá chứ không
thể dựa vào những “thực tế khách quan” có thể nhận biết được (Mahoney 1991).
Nói một cách cụ thể hơn, nhà lý thuyết nhận thức cho rằng có vô số cách diễn giải
hoặc cách nhìn được rút ra từ bất cứ một sự việc nào đó.
Phương pháp tâm lý trị liêu nhận thức hiện đại
phản ảnh sự kết hợp nhiều trường phái tư tưởng và là sự phát triển các công
trình trước đây của Adler (1927, 1968), Arieti (1980), Bowlby (1985), Frankl
(1985), Freud (1892), Horney (1936), Sullivan (1953) và Tolman (1949). Ảnh hưởng
của lý thuyết phân tâm học trên sự tiến hóa của tâm lý trị liệu nhận thức có lẽ
rõ ràng nhất trong mô hình nhân cách và tâm bệnh lý mà trường phái phân tâm
chia sẻ trong khi Freud phân chia tâm lý của con người làm 3 lãnh vực: ý thức,
tiền ý thức và vô thức. Hành vi con người chủ yếu được thúc đẩy bởi động lực vô
thức hoặc các động cơ thuộc về bản năng. Nhà trị liệu nhận thức phân chia tâm
trí con người thành các “tư duy tự động” (automatic thought), các giả định
(assumption) và sơ đồ (schemata).
Giống như các nhà tâm lý trị liệu phân tâm,
nhà trị liệu nhận thức xác nhận sự quan trọng của những đối thoại bên trong và
những động cơ từ bên trong (internal dialogues and motivations). Nhà trị liệu
nhận thức làm việc để giúp thân chủ nói ra những điều chưa được nói, dù rằng họ
vẫn cố gắng tránh dùng các ẩn dụ về sự đè nén các bản năng và quan niệm về việc
hành vi chịu sự chi phối bởi các xung năng gây lo âu bị đè nén. Họ cũng cố gắng
phát hiện và thay đổi các niềm tin cùng các thái độ tạo nên sự đau khổ mà thân
chủ không tự nhận biết được. Vai trò của các yếu tố nhận thức bao gồm: những ý
định, kỳ vọng, ký ức, những mục đích và sự lệch lạc nhận thức trong việc tạo ra
các rối loạn trong nhận thức, cũng được chấp nhận bởi Freud (1892). Freud cho rằng
các suy nghĩ và ý tưởng có thể có một cảm xúc gắn liền với chúng, và các phản ứng
cảm xúc đối với các sự kiện tùy thuộc vào những mục đích cá nhân, sức mạnh và sự
chắc chắn của niềm tin cùng với sự hiện diện của các suy nghĩ tự động tiêu cực,
mà ông qui cho là những ý tưởng mâu thuẫn và gây đau khổ.
Ảnh hưởng của trường phái tâm lý hành vi được
phản ảnh trong mục tiêu của trị liệu nhận thức là nhắm vào sự thay đổi hành vi,
sự chấp nhận tính quyết định của các yếu tố xã hội và môi trường trên hành vi
và sự sử dụng nghiên cứu thực nghiệm như là một phương tiện để tinh lọc cả lý
thuyết và kỹ thuật lâm sàng. Thái độ thực nghiệm được khuyến khích đối với nhà
trị liệu và thân chủ, và các can thiệp hành vi được sử dụng như một thành phần
trong toàn bộ tiến trình trị liệu. Sự nhấn mạnh được đặt trên những vấn đề có
thể xác định cụ thể mà sự cải thiện của chúng có thể được đánh giá một cách
khách quan.
Nhiều tác giả cho rằng trị liệu nhận thức là
một biến thể hoặc con đẻ của sự thay đổi hành vi. Điều này phản ánh trong việc
sử dụng rộng rãi danh xưng “trị liệu nhận thức-hành vi”. Tuy nhiên, điều này rõ
ràng là không công bằng đối với sự phong phú khái niệm trong mô hình này. Ngoài
ra, khuynh hướng này không nhận ra các đóng góp quan trọng của các trường phái
lý thuyết khác trong sự phát triển trị liệu nhận thức.
Trong lịch sử, liệu pháp nhận thức đã được đồng
nhất hóa với một số kỹ thuật đặc thù và được coi là mô hình mà tầm mức chỉ giới
hạn trong việc trị liệu các rối loạn cảm xúc đặc thù. Quan điểm này, dù dễ hiểu,
nhưng lại biểu hiện sự đơn giản hóa lý thuyết nhận thức hiện đại. Đó là do
trong lịch sử liệu pháp nhận thức chủ yếu được giới hạn trong việc thực hành trị
liệu những trường hợp trầm cảm ở người lớn. Mô hình trị liệu được giới hạn về tầm
mức áp dụng và các tác giả không có ý định phát triển nó thành một học thuyết về
nhân cách hoặc tâm bệnh học. Mặc dầu các nghiên cứu ban đầu cho thấy những kết
quả tích cực, nhưng phải đợi đến đầu thập niên 1980, các mô hình trị liệu nhận
thức dành cho các rối loạn khác mới được phát triển và nguồn gốc của các hệ thống
niềm tin phi lý mới trở thành tiêu điểm của sự chú ý. Vì vậy, trị liệu nhận thức
phản ánh một mô hình tiến hóa của tâm lý trị liệu, tâm bệnh học và sự phát triển
mà tầm áp dụng của nó ngày một bành trướng. Sự phát triển của trị liệu nhận thức
bao gồm các công trình đầu tiên của Bandura (1973, 1977a, 1977b, 1985), Beck
(1970, 1972, 1976), Ellis (1962, 1973, 1979), Kelly (1955), Lazarus (1976,
1981), Mahoney (1974), Maultsby (1984), Meichenbaum (1977), Seligman (1974,
1975). Các tác giả trên là những người đầu tiên hợp nhất các cơ cấu được điều
hòa bởi nhận thức với lý thuyết hành vi. Họ tập trung vào vai trò của các tiến
trình học tập xã hội trong sự phát triển các vấn đề cảm xúc và việc sử dụng kỹ
thuật tái cấu trúc nhận thức (cognitive reconstructuring), sự phát triển các khả
năng giải quyết vấn đề xã hội và sự lĩnh hội các kỹ năng hành vi trong việc giải
quyết chúng. Mặc dầu các mô hình nhận thức về tâm bệnh học và tâm lý trị liệu
đã được cải tiến và điều chỉnh từ thời kỳ trên, các kỹ thuật được mô tả trong
các công trình đầu tiên này tiếp tục được sử dụng như nền tảng của việc thực
hành lâm sàng và do vậy đáng được xem xét. Nhà tâm lý lâm sàng theo trường phái
nhận thức đầu tiên là George Kelly (1955), người đề ra “học thuyết về các kiến
tạo cá nhân” (personal construct theory) của các rối loạn cảm xúc, đã xác nhận
rõ tầm quan trọng của các tri giác chủ quan đối với hành vi con người. Ông cho
rằng cá nhân tích cực tri giác hoặc “xây dựng” hành vi của mình và tạo ra một
biểu tượng về bản thân mình, về thế giới xung quanh và về tương lai. “Các kiến
tạo” (constructs) của một cá nhân, như vậy, rất là đặc thù hoặc riêng biệt cho
cá nhân ấy và tiêu biểu cho cách thức trong đó họ liệt kê một cách hệ thống các
trải nghiệm của mình. Bù lại, các kiến tạo này xác định bằng cách nào cá nhân ấy
đáp ứng với các sự kiện. Từ góc nhìn này, mục tiêu của trị liệu là nhằm hiểu biết
được sự giải thích chủ quan hoặc phán đoán của thân chủ về những trải nghiệm của
họ và giúp đỡ thân chủ xây dựng chúng theo cách thức thích nghi hơn. Các kỹ thuật
trị liệu của Kelly, mặc dầu không được sử dụng rộng rãi vào ngày nay, vẫn được
coi là phương thức có tính tiên phong và quan trọng của trường phái trị liệu nhận
thức hiện đại (Guidano & Liotti, 1983, 1985; Guidano, 1987, 1991).
Sự phát triển của trị liệu nhận thức như là một
mô hình xử lý thông tin trong các rối loạn lâm sàng đã được phát triển trong những
năm 1970, vì những kỹ thuật trị liệu đặt nền tảng trên các mô hình được điều
hòa bởi nhận thức được đề nghị và vì các kết quả nghiên cứu trị liệu chứng minh
tính hiệu năng của các kỹ thuật đã được công bố. Ví dụ như công trình của
Meichenbaum (1977) mô tả vai trò của “lời nói được nhập tâm” (internalized
speech) trong việc phát triển các rối loạn cảm xúc. Căn cứ trên các công trình
lý thuyết sớm hơn của Luria (1961) và học trò của mình, Vygotsky (1962), các kỹ
thuật của Meichenbaum về “huấn luyện khả năng tự hướng dẫn” (self-instructional
training) thông qua sự nhẩm lại “những lời tự bạch” (rehearsal of
self-statements), làm mẫu (modeling) và tự củng cố (self-reinforcement) đã chứng
tỏ là đặc biệt hữu ích trong việc trị liệu trầm cảm.
Bandura (1969, 1977a, 1977b) là tác giả được
biết đến nhiều nhất trong việc phát triển mô hình học tập xã hội của chứng lo
âu và tính gay hấn, và ông đã phát hiện ra tầm quan trọng trung tâm của sự nhận
biết về “hiệu năng của bản thân” (self-efficacy) hoặc năng lực cá nhân trong việc
hướng dẫn hành vi con người. Trong việc tái công thức hóa học thuyết hành vi cổ
điển, một số tác giả cho rằng hành vi con người không chỉ được dàn xếp bởi các
yếu tố môi trường và yếu tố ngẫu nhiên mà do các yếu tố niềm tin và tri giác của
cá nhân đó. Mô hình ABC rất thông dụng hiện nay để miêu tả sự quan hệ giữa “sự
kiện đi trước” (Antecedent events), “niềm tin” (Beliefs), “hành vi” (Behavior)
và “hậu quả” (Consequenses) ở mỗi cá nhân được đề nghị bởi Albert Ellis (1962,
1979, 1985) đã gợi ý rằng những hành vi kém thích nghi hoặc các chứng nhiễu tâm
là có liên quan trực tiếp đến những niềm tin phi lý của một con người đối với
những biến cố trong cuộc sống của họ. Ellis đã phát triển một hệ thống các kiểu
thức lệch lạc hoặc sai lầm thường thấy về mặt nhận thức đồng thời phát triển một
số kỹ thuật trị liệu có hướng dẫn để thay đổi chúng. Mô hình của ông cho rằng bằng
cách phát hiện và thay đổi các niềm tin phi lý hoặc không thực tế có thể dẫn đến
sự thay đổi các phản ứng cảm xúc và hành vi trước các sự kiện. Bởi vì những niềm
tin phi lý thường khá kiên định và có tính chất lâu đời, vì vậy cần thiết có những
can thiệp được tập trung cao độ và diễn tả một cách mạnh mẽ mới có thể thay đổi
được. Kỹ thuật tiếp cận của ông rất tích cực và thực tiễn. Mặc dầu các nguyên
lý cơ bản của liệu pháp cảm xúc hợp lý (RET: rational-emotive therapy) chưa được
nghiên cứu thực nghiệm một cách rộng rãi, các kỹ thuật lâm sàng của phương pháp
này ngày nay đã được sử dụng rộng rãi trong việc “công kích” vào các niềm tin
phi lý. Seligman (1974, 1975) cho rằng cá nhân bị trầm cảm khi họ tin rằng họ
không thể kiểm soát các kết quả quan trọng trong đời sống của họ (bao gồm cả
các sự kiện tích cực lẫn các sự kiện tiêu cực hay trừng phạt). Mô hình trầm cảm
“học được sự tuyệt vọng” (learned-helplessness), sau khi được cải biên bởi các
tác giả Abramson, Seligman và Teasdale (1978), đã tạo nên sự quan tâm nghiên cứu
thực nghiệm và gợi ý rằng sự qui lỗi bởi các thân chủ trầm cảm về nguyên nhân
các sự cố trên có thể là mục tiêu quan trọng của việc trị liệu .
Rehn (1977) đã đề nghị một mô hình nhận thức
- hành vi về trầm cảm tập trung vào các thiếu sót trong khả năng “tự điều hòa bản
thân” (self-regulation). Đặc biệt, tác giả cho rằng các thân chủ trầm cảm biểu
hiện sự kém cỏi trong việc tự quản lý bản thân mình (họ tham dự một cách chọn lọc
vào các sự kiện tiêu cực và muốn có các hiệu quả tức thì thay vì chờ đợi những
kết quả lâu dài từ các hành vi của mình) và họ cũng yếu kém trong khả năng tự
đánh giá bản thân (họ thường chỉ trích bản thân quá đáng và có khuynh hướng đổ
lỗi một cách không thích đáng về trách nhiệm của họ đối với các sự kiện tiêu cực)
cũng như yếu kém trong khả năng tự củng cố bản thân (self-reinforcement) (họ
không có khuynh hướng khen thưởng cho các thành công của mình và trừng phạt
mình quá lố khi không đạt được các mục tiêu). Mô hình của Rehn là sự phát triển
các mô hình ban đầu về điều hòa hành vi bản thân (Kanfer, 1971) và có ích lợi
lâm sàng với các vấn đề hành vi nhận thức đặc thù được trải nghiệm bởi các thân
chủ trầm cảm (Fuchs & Rehn, 1977).
BẰNG
CHỨNG VỀ TÍNH HIỆU QUẢ CỦA TRỊ LIỆU NHẬN THỨC
Trị liệu nhận thức có kết quả không ? Những
công trình nghiên cứu về kết quả của trị liệu nhận thức cho thấy các phương
pháp này là có hiệu quả và hứa hẹn (Simon & Fleming, 1985). Một số nghiên cứu
có đối chứng được công bố trong những năm gần đây đã chứng tỏ lợi ích của trị
liệu nhận thức đối với chứng trầm cảm ở người lớn (Hollon và Najavits, 1988).
Một cuộc tổng phân tích 28 nghiên cứu được thực
hiện bởi tác giả Robson (1989) đã chứng minh sự thay đổi nhiều hơn nơi thân chủ
được trị liệu nhận thức so với những nhóm thân chủ đối chứng không áp dụng trị
liệu nhận thức, vd. nhóm được trị liệu bằng thuốc, nhóm trị liệu bằng phương
pháp hành vi, hoặc các liệu pháp tâm lý khác. Ngoài ra, kết quả của các công
trình khác cũng chứng minh rằng tỷ lệ tái phát bệnh khi được áp dụng liệu pháp
nhận thức ít hơn phương pháp dùng thuốc (Evans, Hollon,1992; Hollon, 1990;
Hollon, Shelton & Loosen, 1991, Murphy, Simons, Wetzel & Lustman, 1984),
trị liệu nhận thức có tác dụng phòng ngừa sự tái phát trầm cảm sau khi kết thúc
quá trình trị liệu (tác giả Beck, Hollon, Young, Bedrosian & Budenz, 1985,
Blackburn, Eunson & Bishop, 1986, Kovacs, Rush, Beck & Hollon, 1881).
Phải thừa nhận là các công trình nghiên cứu về kết quả của tâm lý trị liệu rất
là khó khăn. Có nhiều vấn đề đặt ra như sau: phương pháp luận, khái niệm hóa và
thống kê đã giới hạn sự tin tưởng của chúng ta về kết quả nghiên cứu các bảng tổng
phân tích (Crits_Christoph, 1992; Garfield & Bergin, 1968).
Tuy nhiên các khám phá gần đây về hiệu quả của
trị liệu nhận thức và các phương thức tâm lý trị liệu cá nhân khác là đáng
khích lệ. Các báo cáo lâm sàng cho thấy trị liệu nhận thức có thể kết hợp với
trị liệu thuốc (Wright, 1987, 1992; Wright & Schrodt, 1989). Điều ngạc
nhiên là trị liệu nhận thức tác động tốt đến các triệu chứng nội sinh
(endogenous) hoặc ”sinh học” của bệnh trầm cảm (ví dụ mất ngủ, ăn không ngon và
giảm libido), ngoài ra trị liệu nhận thức có kết quả tốt với các thân chủ có
thương số trí tuệ thấp và khả năng kinh tế giới hạn (Blackburn, Bishop, Glen
1981, Williams & Moorey 1989).
Trị liệu nhận thức dường như có tác dụng tốt
đối với rối loạn hoảng sợ (panic disorder) (Beck, Sokol, Clark 1992) và rối loạn
lo âu lan tỏa (Butler, Fennell, 1991) .
ĐẶC
ĐIỂM CỦA TRỊ LIỆU NHẬN THỨC
Giống như các mô hình tâm lý học hành vi, tâm
động học và quan điểm hệ thống, trị liệu nhận thức được miêu tả tốt nhất như một
“trường phái tư tưởng” hơn là một lý thuyết đơn độc. Trường phái trị liệu nhận
thức có thể biến thiên từ chủ nghĩa duy lý định hướng hành vi (behaviorally
oriented rationalism) cho đến học thuyết kiến tạo triệt để (radical
constructivism). Mặc dù những khuynh hướng tiếp cận này có đôi chút khác biệt về
mặt khái niệm nhưng chúng cùng chia sẻ một số những đặc tính chung nhất.
Trị liệu nhận thức có một số những giả định
cơ bản sau đây:
1. Cách thức mà mỗi cá nhân nhận định hoặc cắt
nghĩa các biến cố và tình huống sẽ có vai trò điều tiết cách thức mà cá nhân ấy
cảm nhận và hành xử. Nhận thức của mỗi cá nhân tồn tại trong mối quan hệ tương
tác giữa cảm xúc và hành vi cùng những hậu quả của chúng trên các sự kiện xảy
ra trong môi trường sống của người ấy. Như vậy, sự vận hành của con người là kết
quả của sự tương tác liên tục giữa các biến số đặc hiệu của ngưòi ấy (niềm tin,
các tiến trình nhận thức, cảm xúc và hành vi) và các biến số môi trường. Những
biến số này có ảnh hưởng hỗ tương theo diễn tiến thời gian. Tuy nhiên, không được
coi yếu tố nào là chủ yếu hoặc như là nguyên nhân đầu tiên, mà phải coi là yếu
tố cá nhân và môi trường vừa là yếu tố khởi phát vừa là kết quả của tiến trình
tương giao.
2. Việc diễn giải ý nghĩa của các sự kiện là
có tính cách tích cực và liên tục. Việc phân tích các sự kiện giúp cho cá nhân
rút ra một số ý nghĩa từ các kinh nghiệm của mình và giúp cho cá nhân hiểu được
các sự việc với mục đích thiết lập nên một “môi trường sống riêng của cá nhân
mình” (personal environment) cũng như cách đáp ứng của người ấy đối với các sự
kiện. Kết quả là, các chức năng về cảm xúc và hành vi được xem là có mục đích
và có tính thích ứng. Con người được xem là những người tìm kiếm, nhà sáng tạo
và sử dụng thông tin một cách tích cực (Turk & Salovey,1985).
3. Mỗi con người có thể phát triển nên những
hệ thống niềm tin đặc thù của mình từ đó hướng dẫn cho các hành vi của người ấy.
Niềm tin và giả thuyết ảnh hưởng trên tri giác và trí nhớ cá nhân, từ đó hướng
dẫn trí nhớ được kích hoạt khi có các kích thích hoặc có các sự kiện đặc hiệu.
Mỗi cá nhân trở nên nhạy cảm với các tác nhân đặc hiệu gồm có các biến cố bên
ngoài và các kinh nghiệm cảm xúc bên trong. Niềm tin và các giả định góp phần
vào khuynh hướng khiến cho đương sự tham gia một cách chọn lọc và tiếp nhận
thông tin nào phù hợp với hệ thống niềm tin vốn có, và “bỏ qua” những thông tin
nào không phù hợp với những niềm tin ấy .
4. Các yếu tố gây stress do vậy sẽ góp phần
vào sự tổn hại hoạt động nhận thức cá nhân đồng thời hoạt hoá các đáp ứng cũ kỹ
và kém thích ứng của người ấy. Ví dụ: một người tin rằng lái xe trên xa lộ rất
là nguy hiểm và do đó lái xe rất chậm nên anh ta bị tai nạn xe cộ, sự kiện này
sẽ tăng cường niềm tin sai lệch của anh ta là lái xe trên xa lộ rất là nguy hiểm.
5. Giả thuyết về “tính chuyên biệt của hoạt động
nhận thức” (cognitive specificity hypothesis) cho rằng các hội chứng lâm sàng
và các trạng thái cảm xúc có thể phân biệt đuợc dựa vào nội dung của các hệ thống
niềm tin và các tiến trình nhận thức đã được kích hoạt.
Nền tảng của trị liệu nhận thức dựa vào các hệ
thống niềm tin và ý nghĩa. Nền tảng kiến thức cung cấp cho chúng ta những lăng
kính mà thông qua đó chúng ta diễn giải ý nghĩa của những trải nghiệm và những
kỳ vọng đã hướng dẫn chúng ta trong việc đề ra những kế hoạch và mục đích sống.
Những niềm tin của chúng ta có thể đã có sẵn trong phần ý thức (như trường hợp
những “ý nghĩ tự động”: automatic thoughts) hoặc có thể ở dạng tiềm ẩn, chưa được
nhận rõ (như những “sơ đồ”: schemata). Việc sử dụng thuật ngữ “hệ thống những ý
nghĩa” (meaning system) cho thấy những nền tảng kiến thức và cách thức xử lý
thông tin của chúng ta là có tính tổ chức và có bố cục mạch lạc. Từ quan điểm
này, hành vi của con người được xem là vừa có định hướng mục đích vừa có tính
sáng tạo. Hành vi dựa trên những luật lệ và niềm tin ngầm ẩn được hình thành và
củng cố qua suốt thời gian sống trong cuộc đời của mỗi người. Giống như những
đáp ứng cảm xúc và những kỹ năng hành vi, các tiến trình nhận thức cũng có tính
thích nghi. Các tiến trình nhận thức được xem là có vai trò trung tâm trong việc
tổ chức các đáp ứng của chúng ta đối với cả những sự kiện thường ngày lẫn những
thách thức lâu dài trong cuộc sống. Các tiến trình nhận thức không vận hành độc
lập với cảm xúc và hành vi. Thay vì thế, chúng cùng hợp thành một hệ thống
thích nghi thống nhất (integrated adaptive system) (Leventhal, 1984; R.
Lazarus, 1991). Cũng giống như cảm xúc và hành vi, các tiến trình nhận thức
không thể tách rời khỏi các chức năng về sinh học và xã hội. Hoạt động nhận thức
của con người vừa phụ thuộc vào, vừa có ảnh hưởng đối với các chức năng của não
bộ, và nhận thức cũng được hình thành trong bối cảnh xã hội. Để hiểu về hoạt động
nhận thức, chúng ta phải hiểu các tác động và sự vận dụng của trí hiểu biết. Để
hiểu được cảm xúc, chúng ta phải hiểu được nhận thức và cái cấu trúc kiến tạo
mà hệ thống các ý nghĩa áp đặt lên trên đó.
Khi nói đến “nhận thức”, chúng ta không tự giới
hạn mình ở chỗ chỉ nói về những “ý nghĩ tự động” – tức là những ý nghĩ và niềm
tin bao gồm trong dòng ý thức liên tục của một con người; nhận thức còn bao gồm
các tri giác, ký ức, kỳ vọng, những chuẩn mực, hình tượng, những quy kết, kế hoạch,
mục đích và các niềm tin ẩn ngầm. Những biến số trong hoạt động nhận thức, do vậy,
bao gồm những suy nghĩ trong tầng ý thức nhận biết được cũng như những kiến tạo
và tiến trình nhận thức được suy diễn ra (Kihlstrom, 1987, 1988; Meichenbaum
& Gilmore, 1984; Safran, Vallis, Segal & Shaw, 1986).
MÔ
HÌNH CƠ BẢN CỦA TRỊ LIỆU NHẬN THỨC
Mô hình trị liệu nhận thức cho rằng ba biến số
đóng vai trò trung tâm trong việc hình thành và duy trì các rối loạn tâm lý gồm
có:
• Bộ ba nhận thức (cognitive triad)
• Các sơ đồ (schemata)
• Nhận thức sai lệch (bóp méo)
Bộ
ba nhận thức (Cognitive Triad)
Aaron Beck là tác giả đầu tiên đưa ra khái niệm
về “Bộ ba nhận thức” (cognitive triad) như là một phương tiện mô tả các tư tưởng
và các giấc mộng tiêu cực của những thân chủ trầm cảm nằm viện nội trú (Beck,
1963). Ông đã nhận thấy tư tưởng của người trầm cảm bao gồm các suy nghĩ rất
tiêu cực về bản thân mình, về thế giới bên ngoài và về tương lai. Ngược lại,
các thân chủ lo âu suy nghĩ khác với thân chủ trầm cảm trên ba lãnh vực trên. Họ
có khuynh hướng xem thế giới xung quanh và những người khác là rất đáng sợ và
luôn duy trì một thái độ thận trọng, cảnh giác đối với cuộc sống tương lai.
Khái niệm về bộ ba nhận thức đóng vai trò nhưng một khuôn khổ hữu dụng để xem
xét những ý nghĩ tự động và các niềm tin ẩn giấu sau những gì người bệnh đang
mô tả. Thật vậy, các vấn đề tâm lý của thân chủ đều có thể liên quan đến những
niềm tin không thích nghi và kém chức năng ở một trong số ba lãnh vực trên. Do
vậy, khi bắt đầu việc trị liệu, điều cần thiết là nên hỏi bệnh nhân nói ra những
ý nghĩ của họ về bản thân mình, về thế giới bên ngoài và về tương lai. Do những
niềm tin và thái độ sống luôn có tính đặc thù cá nhân, chúng ta nên tiên liệu rằng
sẽ có sự khác biệt đặc hiệu về nội dung của những ý nghĩ về bản thân, về thế giới
xung quanh và về tương lai giữa những bệnh nhân khác nhau. Bằng cách đánh giá mức
độ can dự của những ý nghĩ vào từng lĩnh vực khiến người bệnh cảm thấy đau khổ
mà nhà trị liệu có thể có khái niệm về những mối bận tâm của họ.
Sơ
đồ (schemata)
Khái niệm sơ đồ đóng một vai trò quan trọng
trong mô hình nhận thức của các vấn đề rối loạn cảm xúc và hành vi. Khái niệm
này, được Kant khởi xướng đầu tiên, và gần đây hơn nó được sử dụng bởi những
nhà tâm lý theo trường phái của Piaget, để chỉ những cấu trúc nhận thức tiềm ẩn
nhưng có tổ chức, mà theo Segal (1988) nó “tổng hợp các thành tố từ những phản ứng
và trải nghiệm trong quá khứ để tạo nên một cấu trúc tri thức tương đối bền vững
và hằng định có khả năng hướng dẫn tri giác và sự nhận định của đương sự”. Được
tồn trữ trong ký ức như những quá trình khái quát hóa các trải nghiệm đặc thù
và những khuôn mẫu cho các hoàn cảnh đặc thù, sơ đồ sẽ cung cấp tiêu điểm và ý
nghĩa cho việc tiếp nhận các thông tin.
Mặc dù không nằm trong tầng ý thức của chúng
ta, các sơ đồ vẫn điều khiển sự chú tâm của chúng ta hướng đến các yếu tố trải
nghiệm hằng ngày nào có tầm quan trọng nhất trong sự tồn tại và thích ứng chúng
ta. Do vậy, các sơ đồ được xem là có ảnh hưởng đến các tiến trình nhận thức như
sự chú ý, sự giải mã (encoding), sự hồi tưởng (retrieval) và sự suy luận
(inference). Cá nhân có xu hướng tiếp thu (assimilate) các trải nghiệm vào
trong các sơ đồ có sẵn hơn là điều ứng (accommodate) để thay đổi sơ đồ theo các
sự kiện không mong đợi hoặc nghịch ý (Fiske & Taylor, 1984; Kovacs &
Beck, 1978; Meichenbaum & Gilmone, 1984). Nghĩa là chúng ta có khuynh hướng
tiếp nhận các trải nghiệm mới dựa trên những gì mà chúng ta đã tin tưởng, thay
vì thay đổi các quan điểm có sẵn trước đây của chúng ta. Trong bài hát “Võ sư
quyền Anh” của mình, Paul Simon đã quan sát “một người đàn ông nghe những gì
ông ta muốn nghe và bỏ qua các phần khác còn lại.
Ngoài những biểu trưng và khuôn mẫu cho các sự
kiện, sơ đồ còn thống hợp các “giá trị cảm xúc” (affective valences) liên quan
đến các sự kiện. Từ quan điểm này, sẽ là lầm lẫn nếu cố phân định sự khác biệt
giữa những phương pháp tâm lý trị liệu “lạnh lùng” về nhận thức với những cách
tiếp cận “nồng ấm” theo kiểu tập trung vào cảm xúc. Hơn nữa, hai bình diện cảm
xúc và nhận thức cũng là những thành phần có tương tác qua lại bên trong một hệ
thống thích nghi thống nhất (integrated adaptive system) (Leventhal, 1984).
Các sự kiện xảy ra trong đời sống sẽ hoạt hóa
cả nội dung của tư tưởng lẫn các cảm xúc kèm theo. Sơ đồ nhận thức có thể mô tả
một cách chính xác hơn như là một cơ cấu nhận thức - cảm xúc
(cognitive-emotional structure). Theo GS. Flavell (1963), các phản ứng nhận thức
và cảm xúc vận hành một cách phụ thuộc lẫn nhau giống như hai mặt của đồng tiền.
Quan điểm này rất hữu dụng về mặt thực hành lâm sàng, ở chỗ nó hướng dẫn chúng ta
có thể khám phá được những ý nghĩ của một thân chủ khi người này đang giãi bày
những cảm xúc rất mạnh mẽ, cũng như có thể suy luận ra được những cảm xúc của
thân chủ khi người này đang tự mô tả về một niềm tin kiên định và kém thích
nghi.
Các sơ đồ được hình thành ở những cá nhân như
là những biểu trưng về các sự kiện. Chúng phát sinh, duy trì và được củng cố
thông qua các tiến trình đồng hóa (assimilation) và điều ứng (accommodation) đối
với những trải ngiệm xa lạ (Rosen, 1985, 1989). Những tiến trình thích nghi này
tiềm ẩn bên dưới hiệu quả của những can thiệp về mặt hành vi. Việc trình bày và
huấn luyện về hành vi giúp cho thân chủ có được những trải nghiệm và chứng cứ
không phù hợp với những niềm tin mà họ vốn có. Những thay đổi về cảm xúc cũng
như hành vi không được xem là bắt nguồn từ việc học tập và từ các tác nhân củng
cố; thay vì thế, những thay đổi xảy ra là do có sự điều chỉnh những niềm tin mà
thân chủ đang có và có sự tạo lập những niềm tin mới để thay thế. Nói chung, để
thay đổi những cảm xúc của một con người, ta phải thay đổi những suy nghĩ và niềm
tin nơi người đó. Như Kegan (1982) nhận thấy: sự thay đổi về hành vi và cảm xúc
hàm chứa một “một tiến trình về mặt ý nghĩa” (an evolution of meaning).
Ngoài những niềm tin về thế giới bên ngoài và
các mối quan hệ xã hội, chúng ta cũng hình thành nên những niềm tin tương đối bền
vững (dù không mô tả ra) về chính chúng ta. Các sơ đồ về bản thân
(self-schemata) này bao gồm những tiến trình khái quát hoá nhận thức, được sử dụng
như một khuôn mẫu từ đó mỗi cá nhân có thể tri giác và ghi nhận những thông tin
về chính mình (Turk & Salovey,1985). Giống như những sơ đồ khác, sơ đồ bản
thân định hướng cho những hoạt động tri giác, ghi nhận, phục hồi và sử dụng
thông tin theo một cách thức phù hợp với sơ đồ. Sơ đồ về bản thân thường được
hình thành rất công phu và kết hợp với các cảm xúc mạnh mẽ, vì thế rất khó có
thể bị thay đổi
Ví dụ những người bị trầm cảm nặng thường duy
trì sơ đồ về bản thân như sau: “tôi có nhiều khuyết điểm” (bản thân) và “những
người xung quanh tôi không thể tin cậy được” (xã hội). Ngược lại những cá nhân
đầy giận dữ, có thể không tin rằng mình có khuyết điểm (bản thân), tuy nhiên, họ
có khuynh hướng tin rằng thế giới là nguy hiểm (xã hội) và con người thì có
tính ma mãnh (xã hội). Mặc dầu những niềm tin này không thể là thành phần của
những suy nghĩ hằng ngày, những niềm tin này có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành
vi và các phản ứng của họ đối với người khác.
Như đã nhận xét, sơ đồ được củng cố và phát
triển suốt thời gian còn bé đến tuổi thiếu niên. Tuy nhiên các sơ đồ kém thích ứng
ít khi do các trải nghiệm gây sang chấn đơn lẻ, chúng có các giá trị thích ứng
và có thể đại diện cho sự “nhập nội” liên tục những hành vi của cha mẹ. Những bậc
cha mẹ có tính không nâng đỡ, hay trừng phạt, hoặc có những hành xử khó dự đoán
trước đối với con cái của mình, thì sau này về già cũng cư xử như vậy. Niềm tin
non nớt của trẻ “Những nhu cầu của mình không sẽ không được ai đáp ứng cả”,
“Mình xấu, không giỏi dang” hoặc “Mình phải phục tùng chịu sự kiểm soát của người
khác để khỏi chịu sự trừng phạt”, ban đầu được âm thầm thể hiện như sự ghi nhận
chủ quan về các trải nghiệm trong quá trình tương tác, kế đó sẽ được phát triển
và củng cố bởi các sự kiện sau này.
Những niềm tin và các kiểu xử lý thông tin
này sau đó được hoạt hóa bởi các sự kiện tương tự như các trải nghiệm trong quá
trình phát triển đầu đời (Infram, 1989). Khi sự hoạt hóa của trí nhớ lan tỏa
xuyên suốt các mối liên kết bên trong mạng lưới sơ đồ, những ký ức, kỳ vọng và
cảm xúc liên quan đến sự kiện sẽ được hoạt hóa. Nếu sơ đồ được hình thành rất
chi li, đương sự sẽ trở nên gắn chặt với sự kiện. Khi những suy nghĩ về sự yếu
đuối cá nhân, sự tuyệt vọng, sự bất mãn trở nên chế ngự, đương sự sẽ trở nên ít
hoạt động, ít tham gia xã hội và tính tình trở nên trầm cảm và tuyệt vọng. Các
quan sát của đương sự về chính mình trong trạng thái này chỉ cung cấp nhiều chứng
cớ về sự bất lực và góp phần làm tồi tệ thêm các vấn đề trong quan hệ xã hội của
họ. Cả hành vi lẫn cảm xúc, theo cách nhìn trên là có tính cách thích ứng. Các
cá nhân hành động theo chiều hướng những kết quả mà họ mong ước và những kỳ vọng
mà họ duy trì. Hành vi bị ảnh hưởng bởi những ý định và mục tiêu được định đặt
trước, bởi những kế hoạch tiếp theo sau và chỉ huy nó, cùng những tiêu chí đặt
ra để thành công trong việc tranh chấp với những gì ngược lại với nó. Vì vậy,
hành vi của chúng ta là đáp ứng lại với những phản hồi từ môi trường sống,
trong đó nó được so sánh với một mục tiêu hoặc một trạng thái mong đợi trên một
nền tảng liên tục và được thích ứng để bù trừ lại với sự tương phản. Từ quan điểm
trên, hành vi con người là được cơ cấu và có tổ chức. Nó được hướng dẫn bởi các
quy luật ngầm hay các cơ cấu nhận thức .
Sơ đồ đóng một vai trò trung tâm trong việc
diễn tả các rối loạn lâm sàng, giải thích được sự bền vững của hành vi theo thời
gian và sự liên tục trong cảm nhận về bản ngã trong cuộc đời của một con người.
Các quy luật ngầm, những giả định và niềm tin đóng vai trò như nguồn gốc của những
nhận thức sai lệch nơi thân chủ. Các sơ đồ thường được lưu giữ mạnh mẽ và được
xem là cần thiết cho sự an toàn, hạnh phúc, hoặc hiện hữu của mỗi cá nhân. Các sơ
đồ được gia cố rất sớm lúc còn bé, được củng cố mạnh mẽ bởi cha mẹ và thường được
đánh giá cao trên kiểu nhân cách của cá nhân. Sơ đồ, giống như những niềm tin,
ít khi vận hành riêng lẻ. Giống như các sai lệch nhận thức, mà ta sắp bàn, các
sơ đồ xảy ra trong những kết hợp, chuyển biến phức tạp .
Nhận
thức sai lệch
Có vô số những thông tin tác động trên đời sống
hằng ngày của chúng ta, do đó ta phải chọn lựa những sự việc nào hay kích thích
nào là quan trọng nhất cho sự thích ứng và sống còn của chúng ta. Một số sự việc
sẽ được xem xét, được nhớ lai, và được nghĩ đến; một số sự việc khác sẽ bị bỏ
qua, không biết đến và quên đi vì không đáng quan tâm hay không quan trọng .
Khi các khả năng chú ý và phân tích thông tin
của chúng ta bị giới hạn, có thể xảy ra một số sai lệch trong các trải nghiệm sống
của chúng ta. Tri giác, ký ức và suy nghĩ của một người có thể méo mó theo một
số cách thức thích ứng hay không thích ứng. Ví dụ một số cá nhân có thể nhìn đời
sống một cách tích cực nhưng không thực tế và họ cho rằng họ có thể ảnh hưởng
hoặc kiểm soát được đời sống mà thực ra họ không thể làm được. Họ có thể nắm bắt
những cơ hội mà hầu hết những người khác đều tránh, ví dụ như khởi sự một doanh
nghiệp mới hay mạo hiểm đầu tư vào thị trường chứng khoán mới.
Tuy nhiên, sự lệch lạc như thế có thể tạo
thành vấn đề khiến một người tìm cách nắm bắt các cơ hội mà rốt cuộc có thể chuốc
lấy những nguy hiểm. Ví dụ: họ có thể cảm thấy đau ngực dữ dội mà không khám
bác sĩ mà cho rằng “không có điều gì xảy ra cho tôi vì tôi còn quá trẻ và khỏe
mạnh nên khó bị cơn đau tim”. Chính sự nhận thức sai lệch, kém thích nghi và
tiêu cực là mục tiêu của trị liệu nhận thức.
Một công việc của trị liệu là làm cho sự lệch
lạc nhận thức ấy được nêu rõ và giúp thân chủ nhận ra tác động của những nhận
thức lệch lạc ấy đối với cuộc sống của mình. Như vậy, lệch lạc nhận thức biểu
hiện cách xử lý thông tin kém thích ứng và có thể trở thành biểu tượng của các
kiểu hành vi đặc biệt hay của một hội chứng lâm sàng nào đó.
Sau đây là một số kiểu mẫu lệch lạc về nhận
thức và những kiểu bệnh nhân tiêu biểu. Đây chưa phải là một danh sách toàn diện
mà chỉ dùng để minh họa nhiều hơn.
1. Tư duy lưỡng phân (dichotomous thinking)
“Các sự vật này trắng hoặc đen”; “Bạn hoặc là
theo tôi hoặc là chống lại tôi”. Ở một mức độ cực đoan, khuynh hướng suy nghĩ tất
cả hoặc không có gì hết, thường gặp trong nhân cách ranh giới (borderline
personality) và ám ảnh xung động
2. Đọc được suy nghĩ (mind reading)
“Họ có thể suy nghĩ rằng tôi là người bất
tài”; “Tôi biết rằng, họ sẽ không chấp nhận”. Kiểu suy nghĩ này thường gặp
trong rối loạn nhân cách tránh né và hoang tưởng.
3. Lý luận có tính cảm xúc (emotional
reasoning)
“Bởi vì tôi thấy mình yếu kém cho nên tôi yếu
kém”; “Bởi vì tôi cảm thấy không thoải mái, nên thế giới này là nguy hiểm”; “Vì
tôi cảm thấy bực bội, nên chắc hẳn là có điều gì đó không đúng”. Các suy nghĩ lệch
lạc này thường xảy ra nơi các thân chủ bị lo âu và hoảng sợ.
4. Cá nhân hóa (personalization)
“Lời bình luận đó không phải là tình cờ, tôi
biết nó đang hướng về tôi”; “Các vấn đề luôn luôn xuất hiện khi tôi vội vã”. Ở
mức độ cực đoan, các suy nghĩ này hay xảy ra các thân chủ rối loạn nhân cách
tránh né và hoang tưởng.
5. Tổng quát hóa quá mức (overgeneralization)
“Mọi việc tôi làm trở nên sai lầm”; “Bất cứ vấn
đề gì tôi chọn lựa, chúng luôn thất bại”. Ở mức độ cực đoan, các suy nghĩ này
hay xảy ra ở những cá nhân bị trầm cảm.
6. Bi thảm hóa (catastrophizing)
“Nếu tôi đến dự tiệc, sẽ có nhiều hậu quả khủng
khiếp”; “Tốt hơn là tôi không nên thử bởi vì tôi có thể thất bại và điều đó rất
là kinh khủng”; “Tim tôi đập nhanh hơn, sẽ xảy ra cơn đau tim”. Ở mức độ cực
đoan, sự lệch lạc này là đặc điểm của rối loạn lo âu, đặc biệt là ám ảnh sợ xã
hội và hoảng loạn (panic).
7. Các mệnh đề “nên” (“should”statements)
“Tôi nên thăm gia đình tôi mỗi khi họ muốn
như thế”; “Họ nên làm điều tôi nói bởi vì điều đó đúng”. Ở mức độ cực đoan các
suy nghĩ này hay xảy ra ở các cá nhân bị ám ảnh cưỡng chế và ở những người cảm
thấy nhiều tội lỗi.
8. Sự trừu tượng có chọn lọc (selective
abstractions)
“Phần thông tin còn lại là hiển nhiên, không
có gì đáng bàn”; “Tôi đã tập trung vào những chi tiết tiêu cực, những điều tích
cực xảy ra không đáng kể”. Các suy nghĩ này thường hay xảy ra ở những người trầm
cảm.
Các lệch lạc nhận thức thông thường khác bao
gồm: “không thấy mặt tích cực”, “ tuyệt đối hóa” và “phô diễn giá trị bản
thân”. Sự giả tạo và sự lệch lạc niềm tin thường tập trung vào mong ước kiểm
soát các sự kiện, giá trị của sự tự phê, buồn rầu , bỏ qua những vấn đề và niềm
tin về sự công bằng và tính ổn định trong các mối quan hệ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét